Thi sĩ Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh năm 1922 tại xã Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, quê gốc làng Lạc Thổ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Năm 1940 – 18 tuổi – ông đỗ Tú tài toàn phần.
Thơ ông xuất hiện từ hồi phong trào thơ mới (1932 – 1945) với khuynh hướng chung của phong trào là những bài thơ lãng mạn, mơ mộng lẫn cả bi quan và khát vọng. Có lẽ mọi người biết đến thơ ông trong giai đoạn này là các bài: Nếu anh còn trẻ viết năm 1941, Một mình (1942), Lại gặp (1942).
bài thơ rất hay nhưng buồn não nuột, tiếc nuối cho một mối tình dang dở từ thời còn trẻ. Cứ tưởng đây là tâm tư của một người đàn ông 60 tuổi, nhưng không phải thế, khi viết bài này Hoàng Cầm mới 19 tuổi.
Cảm khái trước bài thơ đặc sắc của thi sĩ trẻ với mối tình tha thiết nhưng khắc khoải và vô vọng, nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ thành ca khúc Tình Cầm, từ giọng Sol trưởng chuyển sang Sol thứ, diễn tả đúng tâm tư tình cảm của bài thơ, với những giai điệu luyến thương buồn lai láng. Ngày nay trên Youtube chúng ta vẫn có thể nghe nhiều giọng ca thể hiện bài này: Sau khi đỗ tú tài toàn phần, với dự định học tiếp lên cao, nhưng ngày 19/12/1946 kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Hoàng Cầm cũng như rất nhiều thanh niên học sinh lúc bấy giờ, hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch và Mặt trận Việt Minh đã xếp bút nghiên lên đường tranh đấu, Hoàng Cầm đã rời quê hương lên chiến khu 12 (gồm 5 tỉnh: Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Ninh, Quảng Yên). Ở đây, cuối năm 1947 ông đã tập hợp được một số văn nghệ sĩ cùng tham gia thành lập đội văn nghệ tuyên truyền hoạt động ở cả chiến khu 12 và chiến khu Việt Bắc. Giai đoạn này ông đã sáng tác các bài thơ như: Sám hối (4/1947), Đêm liên hoan (10/1947), Khóc anh Lê Lương (11/1947), Tiếng hát sông Lô (12/1947), Bên kia sông Đuống (4/1948), Tâm sự đêm giao thừa (1948)… những bài thơ này đã được đưa lên thành tiết mục ngâm thơ và kịch thơ phục vụ cho các đơn vị vệ quốc đoàn, đặc biệt các Vệ quốc quân rất thích nghe chính tác giả biểu diễn, ngâm thơ trước lúc đơn vị lên đường, Giọng ngâm sang sảng và truyền cảm của ông trong thời khắc xuất quân – theo những nhân chứng thời bấy giờ – đã như một hồi kèn xung trận, nghe xong thơ ông cả đơn vị đã rầm rập lên đường tấn công đồn địch và gần như lần nào cũng thắng trận trở về, bởi thơ ông đã nhắc đến một cách chân thực những tên làng, tên đất, tên sông, những con người và phong tục, lễ hội, làng nghề thân thương gần gũi của cả một vùng Kinh Bắc đang chìm trong khói lửa. Từ tình yêu quê hương đã khơi dậy lòng yêu nước, chí căm thù giặc của những chàng trai vệ quốc quân, nâng cao tinh thần quyết chiến một mất một còn với quân thù để mong sớm trở về giải phóng quê hương. Thời đó, thơ của Hoàng Cầm cùng với những bài thơ của các tác giả khác như: Bắn của Tố Hữu, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Đồng chí của Chính Hữu, Bao giờ trở lại của Hoàng Trung Thông… là những bài thơ luôn đựng trong ba lô của các chiến sĩ.