Chủ Nhật, Tháng Chín 8, 2024

Lịch Sử Hình Thành Và Phát Triển Của Sáo Flute

0

Trong bài viết này, chúng ta sẽ khám phá nguồn gốc của nhạc cụ mà chúng ta biết và yêu thích ngày nay. Chúng ta sẽ theo dõi quá trình phát triển của nó từ những mảnh xương có lỗ, được tìm thấy cách đây khoảng 40.000 năm cho đến những cây sáo được mài giũa kỹ càng, điều chỉnh đồng đều và nhạy bén trong thời kỳ hiện đại. Cây sáo đã trải qua một hành trình phát triển độc đáo, tuy nhiên, cây sáo ngày nay liệu đã phải là đích đến cuối cùng hay chưa, hãy cùng tìm hiểu!

Giống như phần lớn lịch sử cổ đại, nguồn gốc chính xác của âm nhạc là không chắc chắn, nhưng người ta cho rằng những âm thanh sớm nhất được tạo ra bởi giọng nói của con người và có thể là do các hiệu ứng âm thanh ‘tình cờ’ như âm thanh được tự nhiên tạo ra trong môi trường hoặc từ các các công việc hàng ngày, chẳng hạn như nấu ăn, sử dụng các công cụ, v.v

Cây sáo đầu tiên

Divje babe là địa điểm khảo cổ lâu đời nhất của Slovenia. Cũng là nơi tiến sĩ Ivan Turk phát hiện ra cây sáo đầu tiên làm từ ống xương đùi loài gấu hang động năm 1998. Cây sáo này có hai lỗ hoàn chỉnh và hai lỗ còn chưa hoàn chỉnh. Người ta gọi đây là ‘sáo Divje babe’. Do khu vực mà người ta tìm thấy câu sáo này và các đồ chế tạo khác được phát hiện trong cùng một lớp khai quật, các chuyên gia tin rằng nó chắc chắn có niên đại ít nhất 40.000 năm, thậm chí là khoảng 60.000 năm tuổi.

Sau khi thực hiện phân tích, các chuyên gia nhận thấy loại xương được dùng để chế tạo sáo này là của người Neanderthal và là nhạc cụ duy nhất được phát hiện cho đến nay có thể được chơi bởi tổ tiên người Neanderthal của chúng ta. Tuy nhiên, cho đến tận ngày nay, lịch sử xuất hiện chính xác cây sáo này vẫn đang là một đề tài gây nhiều tranh cãi. Một số nhà sử học đã cố gắng giải thích các lỗ trên cây sao thực chất là những vết cắn ngẫu nhiên nhưng lý thuyết này không phù hợp với kích thước răng của các loài động vật được cho là tồn tại trong khu vực vào thời điểm đó. Ngược lại, nếu được tạo ra một cách có chủ ý, cây sáo sẽ thể hiện một trình độ kỹ năng đáng ngạc nhiên đối với người Neanderthal.

Sáo Flute

Cho đến nay, các cuộc tranh luận vẫn tiếp tục gay gắt, nhưng Slovenia đã tuyên bố một cách chính đáng rằng sáo Divje babe là báu vật quốc gia và là điểm thu hút khách du lịch, đồng thời đặt nó trong bảo tàng quốc gia của họ dưới biểu ngữ là nhạc cụ lâu đời nhất trên thế giới. Các bản sao hiện đại của nhạc cụ đã được tạo ra và được chơi thường xuyên ở Slovenia, đáng chú ý nhất là của nhạc sĩ Ljuben Dimkaroski.

Từ trong những bức tranh từ thời kỳ La Mã những năm đầu thế kỷ thứ 10, người ta đã nhận thấy những cây sáo thời kỳ này được chơi bên tay trái, thay vì tay phải như ngày này. Những bức tượng đồng và những bức tranh tường ở thời kỳ này cũng cho thấy dấu vết, bằng chứng tồn tại của cây sáo ngang. Những cây sáo thời kỳ này mang dáng dấp sáo tiêu hơn là những cây sáo Flute chuyên nghiệp ngày nay.

Những khám phá tiếp theo

Mặc dù sáo Divje babe được cho là nhạc cụ lâu đời nhất, nhưng có khả năng sáo đã được phát minh nhiều lần trên khắp thế giới vào những thời điểm khác nhau trong lịch sử. Khi lập biểu đồ tiến trình phát triển của nó, chúng ta chỉ có thể dựa vào bằng chứng được ghi chép lại do các nhà sử học và khảo cổ học tìm thấy. Và trong lịch sử đó đã có ghi chép rất nhiều về những cây sáo khác được tìm thấy ở Ai Cập, Israel, Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp.

Từ sự sụp đổ của Đế chế La Mã vào khoảng năm 400 sau Công nguyên cho đến khoảng năm 1100 sau Công nguyên, người ta ít nghe thấy tiếng sáo và có nhiều học giả cho rằng sáo đã biến mất trong vài thế kỷ. Mãi đến thế kỷ 11 và 12 , sáo mới bắt đầu xuất hiện trở lại, có lẽ bắt đầu từ nước Đức. Vào đầu thế kỷ 15 , sáo được thể hiện trong nhiều bức tranh khác nhau trên khắp Tây Âu và hơn thế nữa. Ở giai đoạn này, sáo vẫn được làm từ xương nhưng phức tạp hơn so với các ví dụ cổ xưa được mô tả ở trên.

Sáo Flute

Sáo trong thời kỳ Phục Hưng

Trong suốt thời kỳ Phục Hưng vào thế kỷ 16, sáo là một trong những nhạc cụ phổ biến nhất trong nền âm nhạc rất sôi động của Ý. Nhạc cụ này được đánh giá cao, thậm chí còn được sưu tầm bởi Henry VIII, người là một nghệ sĩ biểu diễn sáo, đàn hạc, kèn, đàn luýt và đàn lia. Một bản kiểm kê bộ sưu tập nhạc cụ thời kỳ Phục Hưng của ông sau khi ông qua đời vào năm 1547 cho thấy ông sở hữu hơn 70 máy phát nhạc, 40 cây sáo và các loại nhạc cụ khác bao gồm kèn túi, ống sáo, đàn tỳ bà.

Sáo thời bấy giờ rất đơn giản, gồm một ống gỗ, hình trụ, một đầu bịt nút bần, một lỗ thổi và sáu lỗ nhỏ. Do không có các phím đàn phức tạp, những cây sáo này chỉ có thể tạo ra một số nốt nhạc hạn chế nên chúng được làm với các kích cỡ khác nhau, cao độ ở các phím khác nhau.

Vào giữa năm 1320, cây sáo gỗ một khúc với chiều dài khoảng 60cm đã ra đời, có giọng “Rê”, vào năm 1511 Zwerchpfeiff đã cho ra đời cây sáo với 6 lỗ, và tới năm 1529, kiểu sáo giọng cao, trung thấp và trầm ra đời.

Sáo Flute

Thời kỳ Baroque đến ngày nay

Từ thời Tudor cho đến ngày nay, sự phổ biến và phát triển của sáo ngày càng lớn. Đã có nhiều thay đổi với thiết kế ban đầu tác động đến ngữ điệu, tính linh hoạt và chất lượng âm thanh của sáo. Tuy nhiên, về cơ bản, sáo thời kỳ này vẫn có thiết kế theo kiểu ống dài với những lỗ nhỏ đơn giản.

Sáo Flute

Những thay đổi chính, được thực hiện bởi một số lượng tương đối nhỏ các nhà sản xuất sáo có ảnh hưởng lớn, được nêu dưới đây:

Gia đình Hotteterre: thập niên 1670

Sáo thiết kế được chia thành ba phần: khớp đầu, thân và khớp chân.

Phần thân và khớp chân hình nón, thân sáo có đường kính hẹp dần về phía đáy, trong khi khớp đáy mở rộng ra tạo thành một chiếc chuông nhỏ. Thiết kế này vẫn được tuân theo trong một số piccolos hiện đại.

Phím đầu tiên được thêm vào ở dưới cùng để cho phép sử dụng nhạc cụ với việc các ngón bấm phức tạp, chơi tất cả các nốt màu mặc dù cách điều chỉnh vẫn còn một chút thay đổi. Các lỗ ntrên thân sáo đã được làm nhỏ hơn nhiều.

Đến năm 1720, cây sáo đã được chia nhỏ hơn với phần thân bây giờ thành hai phần với các khớp phụ có độ dài khác nhau được gọi là ‘corps de Recharge’. Điều này cho phép người biểu diễn thay đổi cao độ của nhạc cụ để phù hợp với các dàn nhạc khác nhau. Những cây sáo này được gọi là sáo baroque.

Quantz và Tromlitz: 1750 – 1790

Cả hai nghệ sĩ biểu diễn này đã viết những chuyên luận dài về sự phát triển của sáo, bao gồm cả việc hình thành các cách bấm ngón mới cho từng nốt trên nhạc cụ để cải thiện cao độ và ngữ điệu. Đặc biệt, Quantz đã nghiên cứu chi tiết các vấn đề về ngữ điệu của nhạc cụ và giới thiệu một thanh trượt điều chỉnh và phím phụ.

Tuy nhiên, bất chấp điều này, những người làm sáo vẫn không hài lòng về cách điều chỉnh của nhạc cụ và độ phức tạp của cách bấm ngón cần thiết, vì vậy họ đã thêm các phím khác để cải thiện việc tạo ra phím F, B phẳng và G sắc nét.

Sau đó, hai phím được thêm vào khớp đáy để thành phím C và C thăng, đến cuối thế kỷ 18, hai phím nữa đã được giới thiệu, đây có thể được coi là tổ tiên của sáo 8 phím.

Theobald Boehm: 1794 – 1881

Boehm là một thợ kim hoàn chuyên nghiệp có năng khiếu âm nhạc mạnh mẽ, được biết đến với danh hiệu “cha đẻ của sáo hòa nhạc”. Chính những đổi mới của ông, dựa trên việc bổ sung các phím như mô tả ở trên, đã thực sự tạo ra nhạc cụ mà chúng ta biết ngày nay.

Thiết kế đầu tiên của Boehm bắt đầu từ năm 1832, liên quan đến việc tạo ra một cơ chế mới có chức năng như một phần mở rộng của các ngón tay, liên kết các phím bằng một loạt trục di động.

Điều này có nghĩa là lần đầu tiên, các lỗ có thể được đặt cách nhau tùy theo đặc tính âm thanh của sáo và đặc biệt là để tạo ra ngữ điệu mạnh mẽ, thay vì có kích thước thuận tiện cho ngón tay của người chơi. Điều này đã tạo ra sự khác biệt rất lớn đối với ngữ điệu của nhạc cụ.

Đến năm 1847, Boehm đã nghiên cứu về âm học và đưa ra một thiết kế lại khác, lần này với thân hình trụ, khớp chân và khớp đầu hình parabol. Lỗ khí không còn hình tròn hay hình bầu dục nữa mà là hình chữ nhật với các góc bo tròn.

Sáo Flute

Các lỗ trên nhạc cụ này thậm chí còn lớn hơn so với thiết kế trước đó (một cải tiến được giới thiệu nhằm cố gắng làm cho nhạc cụ to hơn) và không thể dễ dàng bị các ngón tay che lại, vì vậy ông đã thiết kế các cốc đệm cho mỗi lỗ để đảm bảo không khí không thể thoát ra ngoài.

Lò xo chốt và phím vòng kim loại sau đó đã được thêm vào để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đóng và mở phím và có lẽ quan trọng nhất là nhạc cụ này được làm từ bạc chất lượng cao của Đức, loại mà Boehm tin rằng có chất lượng âm thanh tốt nhất hiện có. Nhạc cụ này ngay lập tức được ca ngợi là một cải tiến to lớn, và thiết kế của nó đã mang về cho Boehm một số giải thưởng, trong đó có một giải tại Triển lãm Thế giới ở Paris năm 1855.

Năm 1860, sáo Boehm được công nhận là nhạc cụ chính thức của Nhạc viện Paris. Năm 1877 là dấu mốc lịch sử khi Boehm hoàn thiện “cây sáo bạc hiện đại”. Cây sáo Macauley được làm bằng bạc với lỗ thổi bằng vàng. Cây sáo cũng có nhíp nhún bằng vàng và thêm nốt “Si” ở cuối sáo.

Cuối thế kỷ 19, cây sáo xuất hiện trong các bản nhạc và dàn nhạc của Brahms, Strauss và Tchaikovsky, với những khả năng kỹ thuật mở rộng. Rất nhiều các nhạc sĩ sáng tác những tác phẩm độc tấu văn hoa bóng bẩy cùng những tác phẩm biểu diễn điêu luyện trở thành mốt thời thượng. Cây sáo giờ đây đã có thể chơi được âm nhạc mà những nhạc cụ trước thời Boehm coi là những đòi hỏi kỹ thuật quá khó. Phạm vi rộng mà các nhạc sĩ sáng tác thời kỳ lãng mạn đòi hỏi cây sáo là có thể chơi được 3 quãng 8.

Sáo Flute

Tuy nhiên, sự tôn thờ nhạc cụ này không phổ biến với một số nghệ sĩ biểu diễn và nhà soạn nhạc (đáng chú ý là Richard Wagner), đặc biệt là ở Đức, Ý và Nga. Ở những nước này, các nghệ sĩ miễn cưỡng chấp nhận sử dụng loại sao với hệ thống phím mới.

Sáo Kỷ Nguyên Hiện Đại

Đáng ngạc nhiên là một số sửa đổi đã được thực hiện trong phần sau của thế kỷ 19 và trong suốt thế kỷ 20 nhưng có một số nhân vật có ảnh hưởng đã thực hiện một số sửa đổi quan trọng:

– Albert Cooper (những năm 1960) – Cooper đã sửa đổi cơ chế của Boehm để giúp sáo hiện đại chơi dễ dàng hơn. Sáo đã được điều chỉnh lại thành A440 và lỗ khí được cắt theo cách mới để cải thiện chất lượng âm thanh. Sáo trở nên cực kỳ phổ biến với cả những người chuyên nghiệp và nghiệp dư.

– Johann Brogger (những năm 1980) – Brogger đã sửa đổi thêm sáo Boehm bằng cách khắc phục hai vấn đề lớn đã tồn tại gần 150 năm; điều chỉnh kém giữa các phím nhất định và các vấn đề giữa các phím phẳng G và B. Ông đã làm điều này bằng cách giới thiệu các trục không quay, tạo ra âm thanh êm hơn và ít ma sát hơn với các bộ phận chuyển động. Ngoài ra, các sửa đổi cho phép điều chỉnh lò xo riêng lẻ và sáo được tăng cường. Tuy nhiên, sáo Brogger không thực sự được ưa chuộng và chỉ được sử dụng bởi một số ít các nhà sản xuất lớn.

Tổng Kết

Ngày nay, bên cạnh những cải tiến, cây sáo đã đạt đến mức phát triển hoàn thiện nhưng dường như vẫn còn chưa đủ. Cùng với sự phát triển của xã hội nói chung, âm nhạc luôn song hành và luôn có nhu cầu mong muốn thể hiện dòng chảy cuộc sống, cây sáo cũng là bộ phận không tách rời.

Hòa cùng xu thế phát triển hiện đại hóa, âm nhạc cổ điển cũng luôn phải có sự cạnh tranh khốc liệt với dòng nhạc trẻ mới như Pop, Rock…Nhu cầu về thể hiện bản ngã con người luôn hình thành, định hình và đổi mới trong âm nhạc. Chính vì vậy mà ngày nay vẫn tiếp tục phát triển dòng âm nhạc mới mang tên Contemporary (tạm dịch là nhạc đương đại). Tuy nhiên, giá trị của nhạc cổ điển vẫn mãi là giá trị vĩnh hằng không thể thay đổi.

Và để thể hiện dòng nhạc đương đại, những kĩ thuật biểu hiện của sáo cũng có những thay đổi nhỏ. Đã xuất hiện nhiều kĩ thuật diễn tấu mới trên cây sáo và có thể nói: Sự thể hiện âm nhạc của cây sáo là không giới hạn.

Tác giả: Quý Lăng sưu tầm

Lịch sử phát triển đàn piano

0

I. Sơ lược về đàn piano
Piano là tên một nhạc cụ thuộc loại có bàn phím (keyboard), nhạc cụ gõ (percussion) hay nhạc cụ dây (string), tùy thuộc vào cách thức phân loại. Đàn piano tạo ra âm thanh bằng cách gõ vào các sợi dây thép bằng những chiếc búa bọc nỉ bật lên ngay tức thì để cho dây đàn tiếp tục ngân vang ở tần số cộng hưởng của nó. Những rung động này được truyền qua các cầu đến bảng cộng hưởng (soundboard), bộ phận khuếch đại chúng. Âm vực của cây đàn piano ban đầu cũng chỉ có bốn, hay nhiều nhất là năm quãng tám giống như ở đàn harpsichord. Nhưng dần dần nó đã mở rộng tới trên bảy quãng tám vì những thay đổi cấu trúc đàn đã cho phép lực căng tăng lên tới vài tấn.

Đàn piano được sử dụng rộng rãi trong âm nhạc phương Tây cho biểu diễn độc tấu, âm nhạc thính phòng và nhạc đệm. Nó cũng rất phổ biến với vai trò một phương tiện trợ giúp cho sáng tác và diễn tập. Mặc dù không thể mang vác và giá thành đắt đỏ, sự đa dụng và hiện diện khắp nơi của nó đã khiến nó nằm trong số những nhạc cụ quen thuộc nhất.
Từ piano là dạng rút gọn của từ pianoforte, hiếm khi được dùng ngoại trừ trong ngôn ngữ trang trọng và có nguồn gốc từ cái tên gốc tiếng Ý của nhạc cụ là gravicèmbalo col piano e forte, (có nghĩa harpchichord với âm nhẹ và mạnh). Điều này có liên quan đến khả năng của đàn piano trong viêc tạo ra các nốt ở các mức độ sắc thái khác nhau phụ thuộc vào tốc độ và lực nhấn phím.

Các đàn piano ngày nay có hai hình dạng cơ bản (với các phân loại nhỏ hơn của chúng) là piano cánh (grand piano) và piano đứng (upright piano hay vertical piano). Ngoài ra theo sự phát triển của kĩ thuật hiện đại, một số dạng piano khác cũng đã xuất hiện như piano tự động (player piano), piano đồ chơi (toy piano), piano đặt sẵn chương trình (prepared piano), piano kỹ thuật số (digital piano)…

II.Lịch sử phát triển đàn piano
1.Grand piano
Những chiếc grand piano ngày nay được xây dựng trực tiếp từ những chiếc đàn clavico _clavecin (harpsichord) từ khoảng thế kỷ 16 và 17. Khoảng năm 1700, Bartolomeo Cristofori đã thử tạo ra một chiếc đàn harpsichord mà có thể biểu hiện âm nhạc một cách truyền cảm hơn, và đã tạo ra một bộ máy mà các búa gõ vào các dây, khác với đàn harpsichord là dùng quill (dụng cụ gảy đàn bằng ống lông) để gảy. Một đặc trưng lớn khác ở đàn piano thời đầu của ông là cơ cấu búa thoát, nó khiến cho búa tách rời khỏi phím một khi các nốt được đánh lên, và rồi chơi lại ở một vận tốc khác hẳn, làm thay đổi hẳn sự biểu cảm của chính các note đó. Những chiếc piano đầu tiên của Critofori vẫn còn chứa đựng rất nhiều nét giống với thiết kế của một cây đàn clavecin, còn âm thanh thì phần nhiều vẫn như thế, ngoại trừ việc là người chơi bấy giờ có thể chơi nhạc bằng việc nhấn vào bàn phím.

Các thiết kế của Critofori không được biết đến mãi cho đến những năm cuối của 1700, khi các bản thiết kế piano của ông được xuất bản. Các nhà sản xuất như Gottfried Silbermann người Đức và học trò của ông là Christian Friederici và Johannes Zumpe bắt đầu phát triển piano với vai trò là một nhạc cụ độc lập với clavecin. Mặc dù lúc đầu ko được ấn tượng cho lắm nhưng được J.S.Bach ủng hộ năm 1747. Âm nhạc bắt đầu được viết riêng cho piano từ năm 1732 và kỷ nguyên của nó với vai trò một nhạc cụ dành cho biểu diễn bắt đầu.

Sự phát triển của grand piano sau năm 1750 diễn ra theo hai hướng cơ bản. Ở Anh, đàn piano được thiết kế nặng hơn và phức tạp hơn, giống với những cây đàn ngày nay hơn. Ở Đức, một loại khác nhẹ hơn và cấu trúc đơn giản hơn được biết đến như một cây đàn xứ Vienna, được nhà sản xuất Johann Andreas Stein xây dựng, đó chính là những cây đàn mà Haydn, Mozartvà Beethoven đã chơi và soạn nhạc trên đó.

Khi grand piano ngày càng phát triển, nó dần trở thành một nhạc cụ độc lập và cần làm cho âm thanh to hơn. Để tăng âm, các dây phải dầy hơn và bộ khung phải khoẻ hơn nữa, như thế có thể đạt được một áp lực lớn hơn. Bộ khung của đàn piano thông thường được làm bằng gỗ, trở nên dày hơn và nặng hơn và thanh chằng chéo giúp nó kiên cố hơn. Đến năm 1820, Thomas Allen thậm chí vẫn còn dùng các ống kim loại để giữ căng các dây, và một nhà sản xuất thành công người Anh là John Broadwood bắt đầu dùng các tấm bằng sắt để giữ cho chúng được căng lên, mà giờ đây các đĩa đó phần lớn được làm bằng kim loại hơn là bằng gỗ. Năm 1825 Alpheus Babcock sáng chế ra khung bằng gang và sau đó năm 1843, một người Mỹ là Jonas Chickering bắt đầu làm piano với một đĩa tròn vành, một nét đặc trưng của các piano cánh ngày nay. Một sự phát triển đáng chú ý khác là việc chằng các dây, được phát triển bởi Henri Pape năm 1828 và Steinway cấp bằng sáng chế năm 1859, ông đã đặt các dây bass dài hơn lên cao hơn các dây kim, giúp cho các dây dài hơn ở trong hộp ngắn hơn và đặt các dây bass ở giữa qua một bảng cộng hưởng (soundboard) để có một sự hồi âm tốt hơn.

Grand piano được bắt đầu sản xuất hàng loạt vào những năm 1800, cùng với sự thành lập của các công ty như: John Broadwood & Sons,Jonas Chickering, Julius Blũthner, Ignaz Bosendorfer, Friedrich Bechstein, Henry Steinway và Sebastien Erard, những công ty này hoàn toàn phát triển từ nền tảng của mẫu đàn cánh đó tới năm 1821.

2.Upright piano
Sự thử nghiệm đầu tiên để tạo ra một vertical piano đứng xảy ra khoảng vào giữa năm 1735 và 1745. Một người Italia là Domenico Del Mela đã thiết kế một chiếc vertical piano năm 1739 sử dụng một cấu trúc đơn giản. Năm 1745 một người Đức là Christian Ernst Friederici lại tạo ra một loại nhạc cụ được biết đến là “Pyramid piano” (piano kim tự tháp), sở dĩ có tên như vậy là vì hình dáng đặc biệt của chúng. Friederici xuất phát từ cây đàn grand piano vốn có và kết hợp thiết kế hình dáng của vertical piano, nâng các dây và soundboard lên vuông góc với bàn phím và vì thế khiến chúng đứng thẳng, còn các trục lên dây ở dưới đáy của bộ dây, ngay trên các phím. Các cấu trúc piano mà Friederici sử dụng là một phiên bản giản đơn hoá từ một thiết kế của Bartolomeo Christofori năm 1720, tuy nhiên bộ cơ của Friederici thiếu mất các đặc trưng mô phỏng trong nguyên bản của Christofori. Toàn khối nhạc cụ đó được đặt đứng trên một cái bệ hoặc bàn và đằng trước có các cánh cửa có thể đóng mở tự động, để lộ ra bộ dây và soundboard. Các thiết kế này mới chỉ kết hợp giữa grand và vertical piano, sử dụng các dây và soundboard của vertical piano và bộ cơ của grand piano. Các mẫu này được đưa ra vào những năm 1800 nhưng rất mờ nhạt và thua kém so với những mẫu sau này, và đến năm 1840, pyramid piano và vertical piano đã cùng đồng thời bị ngừng sản xuất.

Vertical piano còn tiến hoá đến tận cuối những năm 1780 với sự phát triển của một cấu trúc được thiết kế hoàn toàn thẳng đứng, theo sự thẳng hàng của bộ dây và soundboard. Những chiếc đàn đầu tiên được gọi là một “sticker” (gai), vì có những cái sticker dài làm bằng gỗ nối mặt sau của phím tới đầu cần. Đầu cần được dựng vuông góc với bộ dây và bắt đầu một quá trình bằng việc đầu cần đập trở lại các dây và cứ thế tiếp tục quay lại. Nó được John Landreth thiết kế vào năm 1787 và được William Southwell người Anh xây dựng và bổ sung năm 1798. Một sự phát triển quan trọng khác nữa là dây chằng chéo, giúp cho các dây ở đàn vertical piano dài hơn và cải thiện âm thanh. Năm 1831 Hermann Lichtenthal đã thiết kế ra một hệ thống mà ở đó búa được kiểm soát bằng độ dài của dải băng, như vậy sẽ không cần phải dồn các dây lên một cú đánh đơn lẻ nữa. Robert Wornum – người Anh đã tinh lọc cơ cấu tape-check, đó là cơ sở cho các bộ cơ của vertical piano ngày nay. Có 2 phương thức chống rung bộ dây khác nhau đã được cải tiến. Một cách là sử dụng hệ thống overdamper (giảm âm quá mức), ở đó một dây kim loại dài được gắn với đằng trước của mỗi đòn bẩy trung gian để đi lên và vượt qua đỉnh của các búa. Khi nhấn các phím, sợi dây sẽ chuyển động theo một liên kết để đặt một miếng nỉ hình vuông xuống các dây trước khi búa đập xuống và bật miếng nỉ trở lại khi không nhấn các phím nữa. Hệ thống này tiếp tục được sử dụng cho đến những năm cuối 1800 và rất phổ biến ở Anh và Đức. Hệ thống chống rung thứ hai là một đòn bẩy có bản lề, được nối tới đằng sau của mỗi máy búa gần bộ dây, nó xoay miếng nỉ vuông rời khỏi dây bằng một vòng xích tới đòn bẩy trung gian. Thiết kế này có hiệu quả hơn trong việc chống rung và được sử dụng ở các vertical piano ngày nay. Mẫu vertical piano đã tương đối hoàn chỉnh và các cây đàn ngày nay cơ bản là không thay đổi gì so với những thiết kế từ những năm đầu 1800 đó.

Đến năm 1840, vertical piano tương tự như những gì chúng ta thấy ngày nay, mặc dù có nhỏ hơn và với cấu trúc tinh vi hơn. Các dây giờ đây chạy thẳng từ đỉnh xuống đáy thùng (mà giờ đây được đặt dưới đất chứ ko phải trên một cái bàn như ở pyramid piano). Hệ thống lên dây giờ đây được đặt ở đỉnh của hộp đàn, với các dây chạy chéo xuống hộp đàn và được gắn chặt ở đáy. Bộ cơ và bàn phím nằm ở trung tâm của bộ dây với một phím đẩy sticker lên cao và làm các búa chuyển động lại về hướng các dây.

Những năm sau này, các nhà sản xuất đua nhau làm ra những chiếc đàn piano với những cải tiến hoặc biến đổi khác nhau. Có rất nhiều tên tuổi lớn trong làng sản xuất piano với những nhãn hiệu nổi tiếng và được tín nhiệm như : Broadwood, Baldwin, Marshall& Rose, Kemble,Yamaha, Kawai, Whelpdale & Maxwell, Steinway, Wendl & Lung…. mà ở mỗi hãng, cây đàn lại có một phong cách hay đặc trưng riêng biệt. Thế kỷ 20 đựơc nhìn nhận là có nhiều cuộc chạy đua về kỹ thuật và mẫu mã của cây đàn, hết phóng to lại thu nhỏ, thêm một bộ phận này, bớt một bộ phận khác, tuy vậy, về tổng thể, những thay đổi đó vẫn dựa trên những nguyên mẫu từ thế kỉ 19.

III.Cấu trúc đàn piano ngày nay

1.Khung đàn (Frame): thường được làm bằng sắt, ở rìa sau gắn thanh chốt dây để cài chặt một đầu dây đàn. Ở rìa trước là tấm khóa lên dây, gồm nhiều chốt lên dây. Đầu dây đàn còn lại được quấn quanh chốt lên dây. Độ căng của dây (cao độ của nốt) được cân chỉnh bằng cách vặn các chốt lên dây này.

2.Bảng cộng hưởng (Soundboard): làm bằng gỗ vân sam mỏng và cứng, đặt ở dưới lớp dây đàn, có tác dụng tăng âm bằng rung động cộng hưởng.

3. Dây đàn (String): được làm từ dây thép, có độ dài và độ dày tăng dần lên theo cao độ giảm dần. 2 hoặc 3 dây đàn có độ cao như nhau được sử dụng cho mỗi nốt âm cao. Những nốt có âm thấp hơn chỉ dùng một dây độc lập, có kích thước lớn và được làm nặng hơn bằng cách cuộn những sợi dây đồng mỏng xung quanh dây.

4.Bộ cơ (Action): bao gồm tất cả các bộ phận khiến đầu búa chuyển động, chạm tới dây đàn. Bộ phận có thể nhìn thấy rõ nhất chính là bàn phím, được điều khiển trực tiếp bằng ngón tay người chơi. Các phím đàn trắng được làm bằng nhựa hoặc ngà voi, các phím đen được làm bằng nhựa hoặc gỗ mun.

5.Bộ pedals (bàn đạp): là các cần điều khiển bằng chân. Pedal vang âm (phía bên phải – damper pedal) giữ “bàn phím chặn âm” tách khỏi dây đàn, cho phép dây đàn rung một thời gian dài – tạo ra âm thanh ngân vang ngay cả khi tay đã buông khỏi phím đàn. Pedal giảm âm (phía bên trái – còn gọi là una corda) làm giảm một nửa khoảng cách giữa đầu búa và dây đàn, hoặc là chuyển vị trí của đầu búa một chút sang bên cạnh, khiến đầu búa chỉ chạm vào một dây đàn thay vì 2 hay 3 dây như bình thường, làm giảm cường độ âm thanh. Có những cây đàn piano có thêm pedal thứ 3, pedal duy trì (sustaining pedal). Pedal này không giữ toàn bộ bàn phím chặn âm. Khi phím đàn được nhấn xuống, phím chặn âm tương ứng của nốt đó sẽ được nâng lên, pedal duy trì sẽ chỉ giữ riêng biệt phím chặn âm này và không ảnh hưởng tới các phím chặn âm khác.

Việc sử dụng những chiếc pedal này có khả năng tạo ra những thay đổi âm thanh tinh tế. Phần lớn những cây vertical piano thay Pedal duy trì bằng pedal tập luyện (pratise pedal) có tác dụng đặt tấm nỉ vào giữa đầu búa và dây, tạo ra âm thanh rất nhỏ.

6. Hộp đàn (Case) tạo nên hình dáng đàn và là cơ sở để người ta phân loại đàn piano thành grand piano (piano cánh), square piano (piano vuông) và vertical piano (piano đứng). Loại piano vuông (chính xác là hình chữ nhật) không còn được sản xuất nữa, nó được thay thế hoàn toàn bằng những chiếc vertical piano chiếm ít diện tích hơn. Loại grand piano được chế tạo với nhiều kích cỡ khác nhau, từ kiểu đàn concert dùng trong các buổi hòa nhạc dài 2,69m (tương đương 8 ft 10 inch) cho tới còn những chiếc baby grand chỉ dài 1,8m.

Kiểu đàn vertical piano cũng bao gồm cả loại đàn vertical piano kích thước nhỏ của những năm cuối thế kỉ thứ 19 giống như đàn spinet ngày nay (đàn harpsichord loại nhỏ) và đàn piano hộp. Ở đàn piano đứng dây đàn chạy dọc hoặc chéo từ trên xuống dưới. Ở đàn piano đứng và những đàn cơ nhỏ đôi khi người ta xếp chồng dây đàn: dây đàn những nốt trầm được căng chéo phía trên các dây ngắn của âm khu cao. Bằng cách này chúng có thể tăng thêm độ dài và cải thiện chất lượng âm thanh. Tổng lực căng dây trên một cây đàn cơ vào khoảng 30 tấn, còn của một cây đàn đứng khoảng 14 tấn.

IV. Cơ chế hoạt động của đàn piano

Về cơ bản, khi phím đàn được nhấn xuống phần cuối của đòn bẩy sẽ đẩy trục đứng lên trên khiến đầu búa gõ vào dây đàn. Cùng lúc đó phím chặn âm được nâng lên khỏi dây đàn để chúng rung tự do tạo ra âm thanh.

Sau đây là miêu tả chi tiết với các số thứ tự được đánh như trong biểu đồ 2 :
Mỗi phím đàn (1) là một đòn bẩy, có điểm tựa ở một trục thăng bằng (2). Khi người chơi nhấn một phím đàn xuống, phần đuôi đòn bẩy được nâng lên khiến trục đứng (3) đẩy khớp nối (4) một đầu được giữ chặt lên. Đầu tự do của khớp nối kéo theo chi tiết hình chữ L được gọi là đòn bẩy thoát (5) (escapement lever) và đòn bẩy lặp (9) (repetition lever).

Đòn bẩy thoát đẩy con lăn (6), một cuộn nỉ được gắn chặn vào cán búa (7), đẩy đầu búa lên cao. Đòn bẩy thoát dừng lại khi mà phần đuôi nhô ra của nó chạm vào nút chỉnh (8). Đầu búa rời khỏi đòn bẩy thoát và gõ vào dây đàn. Đòn bẩy lặp cũng được nâng lên, nhưng chỉ tới khi khi đòn bẩy thoát vượt qua nó và chạm vào chiếc ốc rơi (10). Đòn bẩy lặp giữ nguyên vị trí này cho đến lúc phím đàn được thả ra.

Sau đó búa rơi một nửa đường về vị trí cũ. Nó bị chặn lại bởi con lăn và chạm vào đòn bẩy lặp đang ở vị trí được nâng lên cao. Đòn bẩy thoát vì vậy có thể trượt phía dưới cán búa vẫn đang được nâng lên một nửa để trở về vị trí ban đầu của nó. Trong lúc đó, búa kiểm tra (11) ngăn đầu búa gõ lại vào dây đàn.

Nếu phím đàn được thả ra một phần, búa gõ thoát khỏi búa kiểm tra trong khi đòn bẩy vẫn giữ nguyên ở trạng thái nâng lên. Nếu người chơi lại ấn phím đàn này xuống, đòn bẩy thoát có thể một lần nữa đẩy con lăn và làm cho đầu búa nâng lên, gõ vào dây đàn. (Hệ thống này cho phép sự lặp lại liên tục của một nốt trước khi phím đàn và chiếc búa kịp quay trở về vị trí ban đầu của chúng. Đây là một cải tiến quan trọng so với cơ cấu đơn giản của thời kỳ đầu.)

Trong lúc này, phần đuôi của phím đàn đẩy phím chặn tiếng (12) lên phía trên, nâng nó lên khỏi dây đàn. Khi mà phím đàn đã được thả lỏng một phần nào, phím chặn tiếng rơi ngược lại lên dây đàn làm tắt tiếng đàn.

Khi phím đàn được thả ra hoàn toàn, toàn bộ cơ cấu lại trở về vị trí đầu tiên nhờ trọng lực. Không giống với những chiếc grand piano, vertical piano không thể dựa vào trọng lực để buộc mọi thứ trở về vị trí ban đầu. Ở grand piano, các bộ phận đặt nằm ngang trên phím đàn, còn với vertical piano thì bộ cơ lại được xếp gần vuông góc. Vì không thể chỉ dựa vào trọng lực nên nó dùng thêm các loại dây và những băng vải nhỏ để kéo các phần của bộ cơ trở về vị trí cũ.

IV. Một số nghệ sĩ độc tấu nổi tiếng

Piano vẫn luôn là nhạc cụ dành cho những nghệ sĩ bậc thầy. Vào thế kỷ XVIII và XIX các nhà soạn nhạc vẫn thường chơi các tác phẩm của chính mình, trong số đó có Wolfgang Amadeus Mozart, Ludwig van Beethoven, Frédéric Chopin và cả nhà soạn nhạc người Hungary Franz Liszt… Nữ nghệ sĩ piano nổi tiếng người Đức Clara Schumann thì chơi những tác phẩm của chồng bà, nhạc sĩ Robert Schumann. Cuối thế kỉ XIX là thời kì độc tôn của nghệ sĩ người Nga Anton Rubinstein, và đến đầu thế kỷ XX rất nhiều các nghệ sĩ biểu diễn khác đã đi lưu diễn khắp Tây Âu và Mỹ. Trong số đó có thể kể đến nghệ sĩ người Ba Lan Ignace Paderewski, nghệ sĩ người Mỹ gốc Ba Lan Josef Hofmann và Arthur Rubinstein. Trong thời kì giữa Chiến tranh Thế giới I và II (1918 – 1939), nhà soạn nhạc và nghệ sĩ biểu diễn người Mĩ gốc Nga Sergei Rachmaninov, nghệ sĩ người Mỹ gốc Áo Artur Schnabel, nghệ sĩ người Anh Dame Myra Hess, nghệ sĩ người Đức Walter Gieseking và nghệ sĩ người Brasil Guiomar Novaes là những nghệ sĩ độc tấu piano được biết đến nhiều nhất. Sau khi thế chiến thứ II kết thúc vào năm 1945, các nghệ sĩ piano người Nga đã xuất hiện trở lại ở Mỹ, hai trong số họ là Emil Gilels và Sviatoslav Richter. Trong số những nghệ sĩ độc tấu piano nổi tiếng còn có nghệ sĩ người Chile Claudio Arrau, một bậc thầy với mảng tác phẩm biểu diễn đặc biệt rộng; Rudolf Serkin, một giáo viên – nghệ sĩ piano người Mỹ sinh ở Séc; nghệ sĩ thiên tài người Mỹ gốc Nga Vladimir Horowitz và nghệ sĩ người Tây Ban Nha Alicia de Larrocha. Một số nghệ sĩ được đánh giá cao khác xuất hiện sau Chiến tranh thế giới thứ II là nghệ sĩ người Anh gốc Áo Alfred Brendel, người bằng những hiểu biết và tài năng của mình đã khơi dậy những cuộc tranh luận về nghệ thuật vốn đã chìm lặng từ lâu; nghệ sĩ người Canada Glenn Gould, người rất được tán thưởng bởi những thu âm các tác phẩm của Bach, hay các nghệ sĩ người Mỹ Van Cliburn, André Watts, Murray Perahia và nghệ sĩ người Iceland gốc Nga Vladimir Ashkenazy. Ngày nay, với khả năng kỹ thuật của các nghệ sĩ piano ngày càng tăng, con số về các cuộc thi piano mang tầm cỡ quốc tế đã tăng lên một cách đáng kể, tạo nên một sự quan tâm đặc biệt của mọi người và là bước đầu cho việc xây dựng sự nghiệp của những nghệ sĩ mới đầy triển vọng.

Tác giả: Văn Tiến sưu tầm

Top 7 vở Opera lãng mạn nhất mọi thời đại

0
xr:d:DAFqd0WWqfY:388,j:262755308955707265,t:24030415

Có người từng nói rằng: ‘Opera là nơi mà âm nhạc và tình yêu hòa quyện vào nhau’. Đúng vậy, những bản Opera lãng mạn luôn có sức hút đặc biệt bởi sự kết hợp hoàn hảo giữa âm nhạc du dương, những câu chuyện tình yêu say đắm và những cảm xúc rung động khó phai. Bài viết này VietVocal sẽ đưa bạn đến với những bản Opera lãng mạn nhất mọi thời đại, nơi bạn sẽ tìm thấy những giai điệu ngọt ngào, những câu chuyện tình yêu bất hủ và những cảm xúc lay động trái tim.

La Traviata – Bông hoa trà nở muộn

La Traviata (tên tiếng Việt: Cô gái lẳng lơ) là vở opera 3 màn của nhà soạn nhạc người Ý Giuseppe Verdi. Lời của vở opera được viết bởi Francesco Maria Piave dựa trên tiểu thuyết “La Dame aux Camélias” (Trà Hoa Nữ) của Alexandre Dumas. Bản Opera này ra mắt lần đầu tiên tại nhà hát La Fenice ở Venice vào ngày 6 tháng 3 năm 1853.

top-7-ban-opera-lang-man-nhat-moi-thoi-dai-1
La Traviata – Bông hoa trà nở muộn

“La Traviata” kể về câu chuyện của Violetta Valéry, một phụ nữ tình ái và nghệ sĩ lãng mạn, và Alfredo Germont, một thanh niên trẻ giàu có. Hai người họ gặp nhau tại một buổi tiệc và nhanh chóng phát triển một mối quan hệ đầy tình yêu. Tuy nhiên, hạnh phúc của họ bị đe dọa bởi sự phản đối của gia đình của Alfredo, đặc biệt là cha của anh ta, người yêu cầu Violetta phải rời xa con trai mình vì sự uy tín của gia đình.

Opera này chứa đựng nhiều khía cạnh của tình yêu, sự hy sinh và sự phản bội. Từ “Sempre libera”, bản khúc mở đầu nổi tiếng của Violetta, đến các màn trình diễn tình cảm và bi kịch giữa cô và Alfredo, “La Traviata” thể hiện sâu sắc những cảm xúc phức tạp của nhân vật.

“La Traviata” được yêu thích vì âm nhạc đẹp và cảm động của Verdi, cũng như vì sự diễn xuất và ca hát tuyệt vời trong các phiên bản biểu diễn. Tác phẩm này thường được coi là một trong những tác phẩm opera lãng mạn và bi kịch đỉnh cao của nghệ thuật opera Ý.

L’elisir d’amore – Liều thuốc tiên cho tình yêu

L’elisir d’amore (tên tiếng Việt: Liều thuốc tiên cho tình yêu) là vở opera hài 2 màn của nhà soạn nhạc người Ý Gaetano Donizetti. Lời của vở opera được viết bởi Felice Romani dựa trên vở kịch “Le philtre” của Eugène Scribe. Bản Opera này ra mắt lần đầu tiên tại nhà hát Teatro della Canobbiana ở Milan vào ngày 12 tháng 5 năm 1832.

top-7-ban-opera-lang-man-nhat-moi-thoi-dai-2
L’elisir d’amore – Liều thuốc tiên cho tình yêu

Câu chuyện của “L’elisir d’amore” diễn ra ở một ngôi làng nhỏ ở Nước Ý và tập trung vào tình yêu giữa một chàng nông dân tên là Nemorino và một cô nàng xinh đẹp tên là Adina. Nemorino yêu Adina một cách say đắm, nhưng cô lại không chấp nhận tình cảm của anh ta và thậm chí còn đích thân quyến rũ một quân sĩ tên là Belcore. Khi thấy mình không có cơ hội với Adina, Nemorino tìm đến một bậc thầy thuốc lưu học và mua một chai “l’elisir d’amore” (nước thần tình yêu) hy vọng rằng nó sẽ làm cho Adina yêu mình.

“L’elisir d’amore” được yêu thích vì những bản nhạc sôi động, du dương và lãng mạn của Donizetti, cũng như vì tính chất hài hước và lãng mạn của câu chuyện. Tác phẩm này cũng thường được biểu diễn với sự đầu tư về diễn xuất và nghệ thuật, mang lại cho khán giả những trải nghiệm giải trí đầy sảng khoái.

“L’elisir d’amore” là một trong những tác phẩm opera phổ biến nhất của Donizetti và vẫn được biểu diễn thường xuyên trên các sân khấu opera toàn cầu.

La bohème – Vẻ đẹp lãng mạn và bi thương

La Bohème là vở opera 4 màn của nhà soạn nhạc người Ý Giacomo Puccini. Lời của vở opera do Giuseppe Giacosa và Luigi Illica viết dựa trên tiểu thuyết Scènes de la vie de Bohème (Những cảnh đời ở Bohème) của Henri Murger.

top-7-ban-opera-lang-man-nhat-moi-thoi-dai-3
La bohème – Vẻ đẹp lãng mạn và bi thương

Tác phẩm này được ra mắt lần đầu tiên tại nhà hát Teatro Regio ở Turin vào ngày 1 tháng 2 năm 1896 và đã trở thành một phần không thể thiếu của repertory opera toàn cầu từ đó đến nay.

“La Bohème” là câu chuyện về tình yêu giữa Mimi, một cô gái nghèo đang sống ở Paris, và một nhà thơ trẻ tên là Rodolfo. Họ gặp nhau và yêu nhau tại căn phòng nhỏ mà Rodolfo và bạn bè của anh thuê. Bốn nhân vật chính, bao gồm Rodolfo, Marcello, Colline và Schaunard, sống trong cùng một căn phòng và đều là những người nghệ sĩ nghèo.

Tình yêu giữa Rodolfo và Mimi được mô tả một cách tinh tế và lãng mạn qua âm nhạc và lời hát. Dù cuộc sống của họ gặp nhiều khó khăn và thử thách, tình yêu của họ vẫn tồn tại và sâu đậm. Tuy nhiên, Mimi mắc bệnh lao phổi và qua đời vào cuối vở opera.

Romeo và Juliet – Bi kịch tình yêu bất hủ

Romeo và Juliet là vở opera 5 màn của nhà soạn nhạc người Pháp Charles Gounod. Lời của vở opera được viết bởi Jules Barbier và Michel Carré dựa trên vở bi kịch cùng tên của William Shakespeare. Bản Opera này ra mắt lần đầu tiên tại nhà hát Théâtre Lyrique ở Paris vào ngày 27 tháng 4 năm 1867.

top-7-ban-opera-lang-man-nhat-moi-thoi-dai-4
Romeo và Juliet – Bi kịch tình yêu bất hủ

Tác phẩm này kể về tình yêu đầy bi kịch giữa hai nhân vật chính, Romeo Montague và Juliet Capulet, hai đứa con của hai gia đình kẻ thù. Mặc dù gia đình họ đã từng đối đầu nhau, nhưng tình yêu thật sự của Romeo và Juliet không thể ngăn cản được. Họ yêu nhau sâu đậm và sẵn lòng hy sinh tất cả cho tình yêu của mình.

“Romeo và Juliet” được yêu thích vì âm nhạc lãng mạn và cảm động của Gounod, đặc biệt là các khúc hát du dương và những bản nhạc tuyệt vời trong các tình tiết lãng mạn của câu chuyện. Từ “Je veux vivre” của Juliet, một khúc aria nổi tiếng của nàng trong hành lang đêm đầu tiên, cho đến các bản tình ca của Romeo và Juliet, tác phẩm này mang lại những trải nghiệm âm nhạc đầy cảm xúc và ấn tượng.

Tuy nhiên, câu chuyện kết thúc bi kịch với sự tử vong của cả hai nhân vật chính, khi họ chết trong tình yêu của mình, điều này làm cho tác phẩm trở nên cảm động và sâu lắng hơn. Opera “Romeo và Juliet” vẫn là một trong những tác phẩm lãng mạn và bi kịch được yêu thích nhất trong thế giới âm nhạc opera.

Don Giovanni – Kẻ quyến rũ sa ngã

Don Giovanni là vở opera 2 màn của nhà soạn nhạc người Áo Wolfgang Amadeus Mozart. Lời của vở opera được viết bởi Lorenzo da Ponte dựa trên vở kịch “El burlador de Sevilla y convidado de piedra” của Tirso de Molina. Bản Opera này ra mắt lần đầu tiên tại nhà hát Estates ở Prague vào ngày 29 tháng 10 năm 1787.

top-7-ban-opera-lang-man-nhat-moi-thoi-dai-5
Don Giovanni – Kẻ quyến rũ sa ngã

Câu chuyện của “Don Giovanni” xoay quanh cuộc sống của nhân vật chính, Don Giovanni, một quý tộc giàu có và lịch lãm, nhưng cũng là một kẻ đào hoa và tội ác. Qua cuộc sống của Don Giovanni, tác phẩm khám phá các chủ đề như tình yêu, tội ác, trách nhiệm và sự trừng phạt. Những tình huống hài hước, lãng mạn và đen tối xen kẽ nhau trong câu chuyện, tạo nên một bức tranh phong phú về nhân vật này.

Tuy nhiên, tâm điểm của “Don Giovanni” là về mối quan hệ giữa Don Giovanni và Donna Anna, cùng với sự trả thù của Don Giovanni đối với Don Pedro, cha của Donna Anna, sau khi Don Giovanni giết ông ta trong một trận đấu. Câu chuyện phát triển qua các tình tiết ly kỳ, với sự xuất hiện của những nhân vật như Leporello, một người hầu trung thành của Don Giovanni và những phụ nữ mà Don Giovanni đã cố gắng cưa đổ.

Điểm nhấn của “Don Giovanni” là âm nhạc phong phú và đa dạng của Mozart, từ các màn aria cảm động đến các bản hòa nhạc sôi động và tinh tế. Opera này cũng được biết đến với sự phức tạp của các nhân vật và tình huống, cùng với việc kết hợp giữa yếu tố hài hước và tối tăm trong cốt truyện.

“Don Giovanni” được coi là một trong những tác phẩm opera lớn nhất trong lịch sử, với ảnh hưởng sâu rộng trong cả lĩnh vực opera và nghệ thuật biểu diễn nói chung.

Eugene Onegin – Khúc ca về tình yêu và sự lãng mạn

Eugene Onegin (tiếng Nga: Евгений Онегин) là vở opera 3 màn của nhà soạn nhạc người Nga Pyotr Ilyich Tchaikovsky. Lời của vở opera được viết bởi Konstantin Shilovsky dựa trên tiểu thuyết cùng tên của đại thi hào Nga Aleksandr Pushkin. Bản Opera này ra mắt lần đầu tiên tại Nhà hát Mạch và Quốc gia ở Moscow vào ngày 29 tháng 3 năm 1879.

top-7-ban-opera-lang-man-nhat-moi-thoi-dai-6
Eugene Onegin – Khúc ca về tình yêu và sự lãng mạn

Vở opera kể về Eugene Onegin, một thanh niên quý tộc Nga chán nản với cuộc sống xã hội. Onegin đến thăm gia đình Larin, nơi anh gặp Tatiana, một cô gái trẻ lãng mạn và xinh đẹp. Tatiana yêu Onegin và viết thư tỏ tình với anh. Tuy nhiên, Onegin từ chối tình yêu của Tatiana vì anh không tin vào tình yêu đích thực. Onegin lang thang khắp nơi để tìm kiếm niềm vui trong cuộc sống.

Một trong những điểm nhấn của “Eugene Onegin” là âm nhạc tuyệt vời của Tchaikovsky, từ những bản nhạc du dương và lãng mạn đến những phần hòa nhạc mạnh mẽ và đầy cảm xúc. Opera này cũng chứa đựng nhiều màn biểu diễn sâu sắc và cảm động, đặc biệt là trong các màn aria của Tatyana và Eugene Onegin.

“Eugene Onegin” được coi là một trong những tác phẩm opera quan trọng nhất của Tchaikovsky và là một phần không thể thiếu của repertory opera Nga. Nó thường được biểu diễn trên các sân khấu opera trên toàn thế giới và vẫn là một trong những tác phẩm được yêu thích và được đánh giá cao trong lịch sử của nghệ thuật opera.

Madama Butterfly – Vẻ đẹp bi thương của tình yêu

Madama Butterfly là vở opera 3 màn của nhà soạn nhạc người Ý Giacomo Puccini. Lời của vở opera được viết bởi Luigi Illica và Giuseppe Giacosa dựa trên vở kịch “Madame Butterfly” của David Belasco. Bản Opera này ra mắt lần đầu tiên tại nhà hát La Scala ở Milan vào ngày 17 tháng 2 năm 1904.

top-7-ban-opera-lang-man-nhat-moi-thoi-dai-7
Madama Butterfly – Vẻ đẹp bi thương của tình yêu

Câu chuyện của “Madama Butterfly” tập trung vào mối tình giữa một cô gái Nhật Bản tên là Cio-Cio-San (hay còn gọi là Butterfly) và một sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ tên là Pinkerton. Sau một cuộc hôn nhân ngắn ngủi, Pinkerton rời bỏ Butterfly để quay về nước Mỹ, để lại cô trong nỗi đau đớn và hy vọng rằng anh sẽ trở lại. Butterfly tin tưởng vào tình yêu của mình và hy vọng rằng một ngày nào đó Pinkerton sẽ trở lại với cô.

Tác phẩm “Mạdama Butterfly” được yêu thích vì âm nhạc cảm động và đầy cảm xúc của Puccini, cũng như vì cốt truyện sâu sắc và đầy tính nhân văn của nó. Tác phẩm này thường được biểu diễn với sự tập trung vào việc tái hiện chính xác văn hóa Nhật Bản và những khía cạnh tâm lý của nhân vật.

“Mạdama Butterfly” là một trong những tác phẩm opera phổ biến nhất và được yêu thích nhất của Puccini, và vẫn là một phần quan trọng của repertory opera toàn cầu. Câu chuyện về tình yêu, sự hy sinh và hy vọng trong “Madama Butterfly” đã làm cho nó trở thành một trong những tác phẩm opera được biết đến và được trân trọng nhất trong lịch sử nghệ thuật opera.

Như những đóa hoa rực rỡ trong khu vườn âm nhạc, những vở Opera lãng mạn nhất mọi thời đại mang đến cho chúng ta những trải nghiệm đầy cảm xúc. Không chỉ là những câu chuyện tình yêu say đắm, chúng còn là những bức tranh sinh động về cuộc sống, về niềm vui, nỗi buồn và những khát khao của con người. Hãy khám phá thế giới Opera lãng mạn và tìm cho mình những bản Opera mà bạn yêu thích nhất!

Tác giả: Trần Trang sưu tầm

(Nguồn: https://blog.vietvocal.com/)

WORKSHOP: ỨNG DỤNG “AI” TRONG SÁNG TÁC CA KHÚC (P.2)

0

WORKSHOP

ỨNG DỤNG “AI” TRONG SÁNG TÁC CA KHÚC (P.2)

Tiếp tục chủ đề “Ứng dụng AI trong sáng tác ca khúc” lần trước do NS Tiến Mạnh và NS Mai Kiên giới thiệu, buổi chuyên đề này đã tạo được sự hứng khởi của đông đảo các nhạc sĩ hội viên Hội Âm nhạc Hà Nội. Căn cứ vào nguyện vọng của các nhạc sĩ, cũng như nằm trong kế hoạch hoạt động, mở rộng các chuyên đề âm nhạc theo chủ trương của BCH Hội Âm nhạc Hà Nội, chúng tôi tiếp tục tổ chức WORKSHOP: ỨNG DỤNG “AI” TRONG SÁNG TÁC CA KHÚC” – P.2.

  • Nội dung: ỨNG DỤNG “AI” TRONG SÁNG TÁC CA KHÚC (P.2)
  • Diễn giả: Nhà báo, NS Nguyễn Tiến Mạnh
  • Thời gian: 09h00 ngày 15/08/2024
  • Địa điểm: Hội Âm nhạc Hà Nội, số 19 Hàng Buồm – Hà Nội.

 

Trong Workshop sẽ chia thành 4 nhóm do nhạc sĩ Tiến Mạnh phụ trách và điều hành, hỗ trợ chung cho các nhóm. Mỗi nhóm sẽ cử đại diện lên bốc thăm chủ đề sáng tác và phong cách âm nhạc cho tác phẩm.

Ví dụ: chủ đề về Quê hương, Đất nước, Hà Nội, Mùa thu, Tình yêu… theo phong cách Pop hoặc Rock…

Các thành viên mỗi nhóm sẽ cùng nhau trao đổi ý tưởng sáng tác. Sau khi hoàn thành các nhóm sẽ cử Trưởng nhóm lên trình bày ý tưởng và giới thiệu ca khúc (phát Audio hoặc Video thành phẩm).

+ Sử dụng: SUNO AI hoặc các phần mềm làm nhạc khác…

+ Công cụ sử dụng: ĐTDĐ, Laptop, Máy tính bàn…

+ Dự định sẽ có phần thưởng dành cho nhóm có ca khúc hay nhất của buổi Worshop.

Đây là hoạt động chuyên môn mang tính cập nhật, giới thiệu tới các nhạc sĩ về việc sử dụng trí tuệ nhân tạo hỗ trợ trong công việc sáng tác ca khúc hiện nay.

Tuy nhiên, tọa đàm cũng hứa hẹn một cuộc thảo luận sôi nổi về vấn đề này với những câu hỏi được đặt ra:

  • Bản quyền những ca khúc được sáng tạo bởi AI sẽ thuộc về ai?
  • AI có thể sao chép hình ảnh, giọng điệu, giọng hát, âm thanh và phong cách âm nhạc của nhạc sĩ, nghệ sĩ, vậy nó có ảnh hưởng gì đến quyền lợi cá nhân và bản quyền trong âm nhạc?
  • Trí tuệ nhân tạo AI có thực sự thay thế được trí tuệ sáng tạo của con người hay không?
  • Đặc biệt hơn: Công nghệ AI vẫn chỉ là máy móc để hỗ trợ con người, tránh hiện tượng lạm dụng vào công nghệ để làm mất đi sự sáng tạo của con người trong sáng tác âm nhạc.
  • (….)

Hy vọng buổi tọa đàm sẽ diễn ra sôi nối. Với phần trao đổi sử dụng các phần mềm và các bước thực hiện để ứng dụng công nghệ AI như một công cụ hỗ trợ hiệu quả cho các nhạc sĩ để đưa ra những chất liệu, nội dung, chủ đề, phong cách âm nhạc cho một ca khúc. AI dựa trên những thông tin, yêu cầu của nhạc sĩ có thể tự viết ra phần lời, giai điệu, tự hòa âm, phối khí và ca sĩ hát thành phẩm.

Có thể là những ý kiến trao đổi khác nhau, ủng hộ, phản đối khi dùng AI để sáng tác âm nhạc,… Qua đó, chúng ta cũng thấy được việc cập nhật về công nghệ và ứng dụng trí tuệ nhân tạo để phục vụ con người trong sáng tao nghệ thuật mà trong đó có âm nhạc cũng là yếu tố cần thiết.

Tuy nhiên, cũng phải khẳng định rõ rằng: trí tuệ nhân tạo không thể thay thế con người được. Bởi những cảm xúc âm nhạc do các thông số kỹ thuật hình thành và “người máy” hát hay chơi nhạc thì chắc chắn không thể có được cảm âm, những cảm xúc tinh tế như của con người.

Lịch sử OPERA

0

A/ Khái quát về Opera:

Opera tiếng Latin là số nhiều của từ opus (tác phẩm). Opera là một loại hình nghệ thuật tổng hợp. Trong opera có sự kết hợp giữa sân khấu và âm nhạc; sự tham gia của các ca sỹ độc tấu, hợp xướng, dàn nhạc cùng với những loại hình nghệ thuật vô cùng đa dạng khác như ballet, mĩ thuật, diễn xuất của những diễn viên…
Tchaikovsky đã từng nhận xét: “opera có sức hấp dẫn mãnh liệt là bởi vì chỉ có opera mới cho ta có cơ hội được tiếp xúc với đông đảo khán, thính giả”.
Opera mang dấu ấn của thời đại, opera phơi bày hiện thực xã hội, là tiếng thét của nhân dân lao động, là sự vùng lên của những số phận bị đè nén, là niềm khát khao tự do cháy bỏng. Bên cạnh đó opera còn thể hiện được những gì chân thành nhất, sâu thẳm nhất của tình yêu lứa đôi, tình bạn bè thắm thiết, tình mẫu tử bao la và tình yêu quê hương, đất nước.
Opera ra đời tại Florence, Ý vào cuối thế kỉ 16, thời buổi giao thời giữa thời kì Phục hưng và thời kì Baroque. Sự ra đời của opera không chỉ có ý nghĩa tăng thêm một thể loại mới cho nghệ thuật âm nhạc, quan trọng hơn opera đã trở thành nhân tố thôi thúc, phát triển và hoàn thiện hệ thống mới và các thể loại mới trong thời kì Baroque. Thể loại giao hưởng bắt nguồn từ những đoạn dạo đầu trong các vở opera (tiếng Ý là sinfonia) hay những đoạn cadenza cho những nghệ sĩ piano hay violin thể hiện kĩ thuật thì xuất phát từ những đoạn hát khoe kĩ xảo của những ca sĩ opera.
Opera là một thể loại kịch trong đó tất cả hoặc hầu hết các nhân vật đều hát và cùng với dàn nhạc tạo nên một thể thống nhất. Một trong những định nghĩa về opera là dramma per musica (kịch thông qua âm nhạc). Có một vài từ gần đồng nghĩa với Opera như music – drama hay music – theatre.
Opera là một tác phẩm có cốt truyện có thể gồm 1 hoặc nhiều màn, trong 1 màn có thể có 1 hoặc nhiều cảnh. Operetta là một biến thể của opera với qui mô nhỏ hơn và nội dung có tính chất nhẹ nhàng, vui vẻ.
Opera gồm có 2 phần chính: phần nhạc (music) và phần lời (libretto). Thường khi các nhạc sĩ sáng tác opera, họ thường nhờ các nhà văn, nhà viết kịch sáng tác phần lời trước rồi sau đó mới dựa vào đó để viết nhạc. Chỉ có rất ít các nhạc sĩ tự viết lời cho opera của mình như Wagner, Mussorgsky, Leoncavallo…
Opera là một thể loại mới mang tính sáng tạo thực sự. Cho dù có tính kế thừa, song opera đã chứa trong mình linh hồn tư tưởng nhân văn. Chủ nghĩa nhân văn thẩm thấu trong đề tài, chủ đề, nhân vật, ca từ và âm nhạc của opera. Mặt khác opera chú trọng sự biểu hiện, truyền đạt chân thật những tình cảm, tư tưởng con người, khắc họa hình tượng âm nhạc có cá tính, tình tiết xung đột mang tính kịch mạnh mẽ. Một loại hình nghệ thuật như vậy rõ ràng là một sự kiện sáng tạo mang tính khởi xướng trong lịch sử âm nhạc thế giới.

B/ Sự ra đời, hình thành và phát triển của opera qua các thời kì:

I/ Thời kì Phục hưng và Baroque:

1/ Opera ra đời và phát triển ở Ý:

Opera ra đời là do nhu cầu giải trí của giới quý tộc Ý thời kỳ cuối thế kỷ 16. Tại thành phố Florence, những nhà quí tộc như bá tước Giovanni de Bardi hay Jacopo Corci đứng ra thành lập các “nhóm hàn lâm” (Academia) vì sùng bái triết gia Hi Lạp cổ Platon với mục đích phục hồi âm nhạc Hi Lạp cổ. Những nhóm này được người dân Ý gọi là Camerata (hiệp hội) cho rằng âm nhạc Hi Lạp cổ có sức truyền cảm vì đó là âm nhạc đơn điệu (monody), phổ nhạc trên cơ sở thanh điệu, tiết tấu của thi ca. Do đó âm nhạc truyền đạt được nội dung tư tưởng của ca từ, khiến ca từ thêm sinh động, truyền cảm và có sức hấp dẫn. Và từ lối tư duy đó, một người trong số họ, ca sĩ – nhạc sĩ Jacopo Peri (1561 – 1633) đã sáng ra vở opera Dafne vào năm 1597 với phần lời của nhà thơ Ottavio Rinuccini – được coi là vở opera đầu tiên trong lịch sử âm nhạc. Tuy nhiên, hiện nay chỉ còn lại phần ca từ của vở opera này. Vào năm 1600, Peri và Rinuccini lại cùng nhau sáng tác Euridice, vở opera này còn được lưu giữ đến ngày này. Từ đó Florence trở thành nơi tập trung của những nhà soạn nhạc opera, ngoài Peri, ta còn có thể kể đến một số nhạc sĩ khác như Giulio Caccini, Pietro Strozzi, Marco da Gagliano hay Vincenzo Galilei (cha của Galileo Galilei). Những vở opera trong thời kì sơ khai này chú trọng ca từ và coi phần nhạc chỉ là vai phụ cho ca từ. Họ chú trọng đến âm nhạc đơn điệu (monody) và lên án âm nhạc phức điệu (polyphony) làm méo mó ca từ. Chính họ cũng là người đã sáng tạo ra phong cách recitativo (hát nói) rất phổ biến sau này.
Opera đã tỏ ra rất phù hợp giới quí tộc Ý. Và không chỉ ở Florence, nghệ thuật opera đã bắt đầu lan tỏa ra những thành phố khác. Đầu tiên là tại Rome, một số thành viên trong nhóm Camarata đã chuyển đến Rome sinh sống và sáng tác. Nổi tiếng nhất trong số này là nhạc sĩ Stefano Landi (1587 – 1639) với vở opera Sant’Alessio (1632) Đặc điểm của opera Rome là chủ yếu mang đề tài tôn giáo, thần thoại và tính chất âm nhạc giữa aria và recitativo khác nhau khá rõ ràng.
Sau Rome là Venice, tại đây lần đầu tiên opera được công diễn bán vé để mọi tầng lớp có thể vào xem. Venice cũng là nơi đầu tiên trên thế giới xuất hiện nhà hát công cộng – nhà hát Teatro San Cassiano (1637). Và như vậy, opera không còn là trò giải trí của riêng giới quí tộc nữa. Chính điều này đã khiến opera trở nên phổ cập và giúp cho số lượng các vở opera được sáng tác tăng vọt. Tại đây đã xuất hiện một trong những nhà cải cách opera vĩ đại trong lịch sử. Claudio Monteverdi (1567 – 1643) là cây cầu nối giữa thời kỳ Phục hưng và Baroque. Chịu ảnh hưởng từ Peri và cũng là một đại diện của giới nghệ thuật Florence như Peri, nhưng không như Peri là một ca sĩ – nhạc sĩ, Monteverdi là một nhạc sĩ chuyên nghiệp. Năm 1607 ông sáng tác vở opera Orfeo, cũng lấy cảm hứng từ câu chuyện “Orpheus và Euridice” trong thần thoại Hi Lạp. So với Euridice của Peri, thì vở opera của Monterverdi có những thay đổi mang tính lịch sử. Thay vì sử dụng những cây đàn lute, Monterverdi đã mạnh dạn sử dụng đàn dây, harpsichord, organ, trumpet, recorder và một vài nhạc cụ khác nữa. Biên chế dàn nhạc được mở rộng khiến cho âm nhạc của vở opera trở nên giàu màu sắc và có tính tương phản rõ nét. Monterverdi cũng mở đầu opera bằng một đoạn nhạc ngắn, tiền thân của overture sau này. Ông cũng tạo cho những nhân vật sự khác biệt bằng những nét nhạc đặc thù. Recitativo trong vở opera này không chỉ đơn thuần là truyền tải nội dung ca từ mà còn phải thể hiện ý nghĩa của ca từ, khắc họa diễn biến nội tâm sâu sắc của nhân vật. Cho đến tận ngày nay, nhiều vở opera của Monterverdi như Il ritorno d’Ulisse in patria (1641) hay L’incoronazione di Poppea (1642) vẫn còn được trình diễn. Monterverdi được coi là một trong những nhạc sĩ có ảnh hưởng nhất đối với những thế hệ đi sau. Những nhạc sĩ khác thuộc trường phái này là Pietro Francesco Cavalli (1602 – 1676) và Antonio Cesti (1623 – 1669).
Đến cuối thế kỉ 17 đầu thế kỉ 18, trung tâm opera của nước Ý chuyển từ Venice sang Naples. Đặc điểm nổi bật nhất của những vở Neapolitan opera này là sự hài hước nhẹ nhàng (mở đầu cho những vở opera buffa (opera hài hước) sau này). Nhạc sĩ nổi tiếng nhất thời kì này là Alessandro Scarlatti (1660 – 1725). Đóng góp đáng kể nhất của Scarlatti là phát triển da capo aria (hình thức aria ba đoạn ABA’ trong đó phần A được nối tiếp bằng phần B mang tính tương phản và chủ yếu viết ở giọng thứ rồi được quay trở lại phần đầu) để thể hiện diễn biến nội tâm phức tạp của nhân vật và là kiểu mẫu để những nhạc sĩ sau này noi theo. Scarlatti cũng là người đầu tiên định hình Overture kiểu Ý theo hình thức nhanh – chậm – nhanh là tiền đề cho sự ra đời của giao hưởng sau này. Scarlatti viết tất cả 88 vở opera (tùy theo tài liệu con số này có thể lên đến hơn 100) nhưng hầu hết đều bị thất lạc. Có một số vở opera của Scarlatti lấy đề tài thần thoại hoặc anh hùng ca là tiền đề cho những vở opera seria (opera nghiêm túc) sau này. Neapolitan opera có một vai trò đặc biệt quan trọng trong lịch sử phát triển opera và ảnh hưởng tới toàn bộ nền âm nhạc châu Âu thế kỉ 18.

2/ Sự phát triển opera tại các nước Pháp, Đức và Anh:

Pháp: Năm 1647, lần đầu tiên người dân Pháp tiếp cận thể loại opera khi vở Orfeo của Luigi Rossi được công diễn tại Paris, tiếp theo đó là những vở opera của Pietro Francesco Cavalli. Trước thời điểm này thì ở Pháp loại hình sân khấu chiếm vị trí chủ đạo là ballet. Chỉ đến khi có sự xuất hiện của Jean-Baptiste Lully (1632 – 1687) thì mới có sự ra đời của nền opera Pháp. Lully sinh ra tại Florence và đến năm 1661, ông mới nhập quốc tịch Pháp. Là một người rất tài năng, ban đầu Lully được đích thân Louis XIV mời làm vũ công ballet và sau đó là nhạc sĩ sáng tác âm nhạc cho các vở ballet và biên đạo múa. Ông tập trung vào nghiên cứu và sáng tác opera từ năm 1672. Lully gọi những vở opera của mình là tragédies lyriques (bi kịch trữ tình). Những đặc điểm chính trong các vở opera của Lully: sử dụng rất nhiều những vũ điệu, đưa ballet trở thành một nhân tố tích cực trong opera; sáng tạo ra Overture theo kiểu Pháp gồm 2 phần chậm – nhanh và đặc biệt trong opera của Lully sử dụng rất nhiều và hiệu quả hợp xướng – điều trước đây hầu như chưa thấy xuất hiện trong opera Ý. Những vở opera đáng chú ý của Lully là Alceste (1674), Atys (1676) và Armide et Rénaud (1686).
Tiếp nối Lully, Jean Philippe Rameau (1683 – 1764) cũng là một tác giả rất quan trọng. Những nhạc sĩ sau này như Berlioz, Debussy đều đánh giá rất cao Rameau. Cũng là một nhà phê bình âm nhạc hết sức xuất sắc, Rameau đã xây dựng được một tư duy hòa thanh mới vì vậy phần khí nhạc trong opera của ông vô cùng hiệu quả và độc đáo. Ông đã rất thành công trong việc đưa phức điệu vào trong những vở opera của mình. Những vở opera của Lully và Rameau còn được gọi là opera – ballet.
Đức: Người sáng tác ra vở opera đầu tiên của nước Đức – vở Dafne (1627) là nhạc sỹ Heinrich Schütz (1582 – 1672). Âm nhạc của vở opera này nói riêng và toàn bộ tác phẩm của Schütz nói chung chịu ảnh hưởng từ 2 nhạc sỹ người Ý: Giovanni Gabrieli (thầy dạy của ông ở Venice từ năm 1609 đến 1613) và Monteverdi. Nhiều nhà hát opera được xây dựng tại Munich, Dresden và đặc biệt là Hamburg. Tại Hamburg, sau khi Schütz qua đời nổi lên nhạc sĩ Reinhard Keiser (1674 – 1739). Chính Handel và Mozart sau này cũng thừa nhận trong sáng tác opera, họ chịu khá nhiều ảnh hưởng từ Keiser. Nhạc sĩ Handel trẻ tuổi cũng sáng tác một số vở opera trong thời gian ông sống tại đây nhưng không mấy thành công. Georg Philipp Telemann(1681 – 1767) là người cùng thời với Johann Sebastian Bach và là bạn thân của Handel. Ông đã sáng tác khoảng 40 vở opera và được người đương thời đánh giá thậm chí còn cao hơn Bach và Handel. Sau khi Telemann qua đời, nền opera Đức lại bị nước Ý thao túng.
Anh: Nước Anh luôn háo hức đón chào và tiếp nhận nghệ thuật nước ngoài. Trước khi xuất hiện opera, ở nước Anh vào cuối thế kỉ 16 thịnh hành kịch mặt nạ (masque), chỉ đến khi một người xuất hiện thì nền opera Anh mới thực bắt đầu. Người đó chính là Henry Purcell (1659 – 1695). Ông chính là người đã khai sinh ra nền opera Anh với vở Dido and Aeneas (1689). Nhà hát Opera đầu tiên ở London xuất hiện năm 1671 là để trình diễn các tác phẩm của Purcell. Purcell đã biết tiếp thu tinh hoa của 2 nền opera Ý và Pháp thời bấy giờ với overture theo kiểu Pháp nhưng recitativo và aria thì theo kiểu Ý. Purcell đã rất khéo léo trong việc lồng âm nhạc vào tiếng Anh để đem lại sự hài lòng cho khán, thính giả. Ngoài Dido and Aeneas, Oedipus cũng là một vở opera rất thành công. Ngày nay, những tác phẩm của Purcell vẫn được công diễn.
Sau khi Purcell qua đời, bẵng đi một thời gian dài nền opera Anh không có những tác phẩm nào đáng kể. Chỉ đến khi có sự xuất hiện của nhà soạn nhạc vĩ đại George Frideric Handel (1685 – 1759) thì nền opera Anh mới khôi phục được vị thế của mình. Nhạc sĩ người Đức Handel từng là nghệ sĩ violin tại nhà hát Hamburg dưới thời Keiser làm giám đốc và bắt đầu sáng tác opera. Từ năm 1706 đến năm 1710 ông sống tại một số thành phố của Ý như Rome, Florence và Naples. Chính tại Naples, ông đã chịu ảnh hưởng từ A. Scarlatti và Neapolitan Opera. Những vở opera được Handel sáng tác trong thời gian này như Rodrigo (1707) và Agrippina (1709) đã giành được tiếng vang lớn và thu hút được sự chú ý của nhà hát Opera London. Handel được mời sang London và ngay lập tức bằng vở opera mang phong cách Ý Rinaldo (1711), ông đã được nhà hát mời cộng tác lâu dài. Năm 1719, hoàng gia Anh cho xây dựng Nhạc viện Hoàng gia và Handel được đảm nhận trọng trách giám đốc nhạc viện và nhạc trưởng chính của nhà hát opera London. Trong thời gian này ông đã sáng tác những vở opera hay nhất của mình như Giulio Cesare (1724), Tamerlano (1724), Rodelinda (1725). Trong những năm 1730, do một bộ phận giới quý tộc ở Anh không hài lòng với nguồn gốc Đức của ông (dù Handel đã nhập quốc tịch Anh năm 1727) nên ông phải nhường lại quyền điều hành nhà hát cho Nicola Porpora – một nhạc sĩ người Ý. Những năm cuối đời, nhạc sĩ ít viết opera hơn mà tập trung chủ yếu vào oratorio cũng như các thể loại khác nhưng những vở opera được sáng tác trong thời gian này như Orlando (1733) Alcina(1735) hay Serse (1738) đều được đánh giá rất cao và được coi là đã vượt ra ngoài phạm vi ảnh hưởng của opera Ý. Các vở opera của Handel phần lớn đều được coi là opera seria.

II/ Thời kì Cổ điển:

Trong thời kì này, opera chủ yếu phát triển tại Đức và Áo hay thậm chí là cả Pháp. Còn opera Ý đã bị mất vị thế bá chủ và rơi vào giai đoạn khủng hoảng dù rằng các vở opera bằng tiếng Ý vẫn được sáng tác đều đặn. Đây cũng là thời kì nền opera châu Âu chia làm 2 thể loại chính: opera seria và opera buffa.
Opera seria phát triển từ Neapolitan opera với cốt truyện lấy từ đề tài lịch sử hoặc thần thoại với âm nhạc mang tính chất trang trọng và rất phổ biến trong thời kì Baroque. Tuy nhiên đến đầu thế kỉ 18, do kết cấu của opera seria trở nên quá nhàm chán, các aria và recitativo luân phiên nhau xuất hiện. Nhà thơ người Ý Metastasio trong thời gian này đã viết tới 30 kịch bản để các nhạc sĩ sáng tác opera. Điều này khiến opera seria đâm vào ngõ cụt, khán giả quay lưng lại. Hơn nữa sân khấu opera giờ đây chỉ là nơi để các ca sĩ castrato (ca sĩ bị hoạn) khoe giọng. Các castrato này thỏa sức hát những gì họ thích, không hề quan tâm đến nội dung các vở opera cũng như yêu cầu của nhạc sĩ. Chính vì vậy sân khấu opera châu Âu vào đầu thế kỉ 18 cần có một sự thay đổi mang tính bước ngoặt. Trong bối cảnh đó opera buffa lên ngôi và trở thành phong cách opera chủ đạo của thời kì Cổ điển.

1/ Sự lên ngôi của opera buffa và sự hình thành opera-comique và singspiel:

Cũng khởi nguồn từ Neapolitan opera, opera buffa đã trở thành đối trọng của opera seria. Đặc điểm của opera buffa là phong cách dí dỏm, nhẹ nhàng lấy bối cảnh từ chính cuộc sống thường nhật của người dân, châm chọc những người thuộc tầng lớp trên nên dễ được quần chúng đón nhận. Về mặt âm nhạc, opera buffa sử dụng nhiều các duet (khác với opera seria hay dùng aria) và coi trọng giọng bass, điều gần như không xuất hiện trong opera seria. Opera buffa đã thật sự khẳng định được vị thế của mình vào đầu thế kỉ 19. Trước đây, opera buffa chỉ được biểu diễn với tư cách là 1 intermezzo (khoảng nghỉ) giữa hai màn của 1 vở opera seria. Nhạc sĩ tiêu biểu trong thời kì này là Giovanni Battista Pergolesi (1710 – 1736). Ông sáng tác cả opera seria và opera buffa trong đó vở opera buffa La serva padrona (1733) là vở opera buffa đầu tiên tách được mình ra khỏi 1 vở opera seria để công diễn 1 cách độc lập (ban đầu La serva padrona cũng chỉ được sáng tác như là 1 intermezzo của vở opera seria Il prigioniero superbo). Pergolesi được coi là nhạc sĩ lớn đầu tiên sáng tác opera buffa. Sau Pergolesi, còn nhiều nhạc sĩ sáng tác opera buffa nổi tiếng khác như Nicolò Piccinni (1728 – 1800), Giovanni Paisiello (1740 – 1816) hay Domenico Cimarosa (1749 – 1801).
Song song với sự phát triển opera buffa tại Ý, tại Pháp và Đức opera cũng có những cải cách đáng kể theo hướng độc lập và có xu hướng ngày càng ít chịu ảnh hưởng từ opera Ý. Tại Pháp, opera hài hước được gọi là opera-comique, thuật ngữ này lần đầu xuất hiện vào khoảng năm 1716. Opera-comique đã tiếp thu và phát triển từ các vở opera buffa của Ý nhưng có thay đổi đáng kể nhất là không sử dụng recitativo và thay vào đó là hình thức đối thoại. Paris cho xây dựng nhà hát Opéra-Comique để biểu diễn những vở opera này. Tác giả sáng tác opera-comique đáng chú ý trong thế kỉ 18 là nhạc sĩ người Bỉ sống tại Pháp từ năm 1767 André Modeste Grétry (1741 – 1813) với vở Richard Coeur-de-lion (1875). Grétry cũng được coi là người đầu tiên đặt nền móng cho opéra grande. Tuy nhiên sau cuộc cách mạng năm 1789, tính hài hước trong opera-comique ngày một ít đi, thậm chí bị triệt tiêu. Tại Đức, từ giữa thế kỉ thứ 18 hình thành thể loại singspiel (hát – diễn). So sánh với opera buffa hay opera-comique thì singspiel đối thoại nhiều hơn và mang nhiều âm hưởng của các bài hát Đức (lied) và ảnh hưởng từ hài kịch dân gian Đức. Johann Adam Hiller (1728 – 1804) được coi là người sáng lập ra singspiel. Những vở opera bằng tiếng Đức của Mozart, Beethoven hay Weber sau này đã đưa singspiel lên đỉnh cao.
Những năm cuối của thế kỉ 18 được đánh dấu bằng cuộc cách mạng Tư sản Pháp 1789, điều này đã ảnh hưởng rất lớn tới quan niệm sáng tác của giới văn học nghệ thuật, trong đó có lĩnh vực âm nhạc. Các vở opera mang tính thời sự hơn, kêu gọi sự tự do, bình đẳng và đề cao tính anh hùng. Đã xuất hiện một dòng opera được sáng tác theo nội dung này và được gọi là rescue opera (opera giải cứu). Những vở opera tiêu biểu thuộc trào lưu này là Médée (1797) và Les deux journées (1800) của Luigi Cherubini (1760 – 1842) và La vestale (1807) của Gaspare Spontini (1774 – 1851).

2/ Christoph Willibald Gluck và sự cải cách vĩ đại:

Nhạc sĩ người Đức Christoph Willibald Gluck (1714 – 1787) là một nhà cải cách opera vĩ đại. Thời gian đầu ông sống ở Milan và đã sáng tác khá nhiều vở opera tại đây. Những vở opera này đã đem lại danh tiếng cho ông và năm 1745, ông lên đường sang London và gặp gỡ Handel. Tuy nhiên, Handel tỏ ra không quan tâm đến opera của Gluck. Thất bại, Gluck buồn chán rời nước Anh đi nghiên cứu âm nhạc của hầu hết các nước châu Âu và rồi định cư tại Vienna từ năm 1750. Chính trong quãng thời gian này, Gluck đã tiếp thu tư tưởng của phong trào Khai sáng và từ đó ông nung nấu ý định cải cách opera vì Gluck nhận thấy rằng trong thời kì này, các vở opera đã trở nên rập khuôn và thiếu sâu sắc. Năm 1761, Gluck đã may mắn có dịp gặp gỡ và làm quen với nhà thơ Ranicro Calzabigi và 2 người bạn tâm đầu ý hợp này đã cùng nhau viết vở opera Orfeo ed Euridice. Năm 1762, vở opera được công diễn lần đầu tại Vienna. Đây đã trở thành cột mốc quan trọng đánh dấu một bước tiến mới trong việc cải cách opera. Orfeo ed Euridice có những điểm khác biệt cơ bản với những vở opera trước đó, Orfeo ed Euridicelà một lời tuyên chiến quyết liệt với sự hào nhoáng bề ngoài và xu hướng mua vui của giới quý tộc. Gluck đã phát triển opera theo hướng biểu lộ nhiều cảm xúc trong ca từ và âm nhạc nhưng nghiêm cấm lối hát hoa mĩ, lợi dụng kĩ xảo của các ca sĩ thời kì đó. Ông bắt các ca sĩ phải hát đúng như yêu cầu trong tổng phổ. Quan niệm sáng tác của Gluck là hướng đến những gì chân thật nhất, tự nhiên nhất như chính những gì mà cuộc sống vốn có. Trong các tác phẩm của mình, Gluck chuyên tâm vào thế giới nội tâm của nhân vật và âm nhạc phụ thuộc vào tính kịch. Gluck cũng là người đầu tiên đưa một số giai điệu của opera vào trong phần overture, điều này giúp cho overture trở thành phần dự báo và giúp cho thính giả nắm được chủ đề cơ bản của vở opera. Gluck có ảnh hưởng rõ rệt với Mozart, Weber, Berlioz và Wagner sau này. Sau sự thành công của Orfeo ed Euridice, Gluck tiếp tục sáng tác nhiều vở opera khác như Alceste (1767) hay Iphigénie en Aulide (1774)” nhưng bị những người theo phe bảo thủ phản ứng dữ dội khiến nhạc sĩ bị tổn thương và sau năm 1780, Gluck hoàn toàn không sáng tác opera nữa. Tuy nhiên tinh thần vĩ đại của Gluck được nhiều nhạc sĩ sau này tiếp thu và vai trò lịch sử của ông đã được chính thức thừa nhận.

3/ Wolfgang Amadeus Mozart:

Nhà soạn nhạc thiên tài người Áo Wolfgang Amadeus Mozart (1756 – 1791) là tác giả của hơn 20 vở opera trong đó có nhiều vở đã trở thành những kiệt tác. Với tư cách một nghệ sĩ piano thần đồng, thuở nhỏ Mozart đã đi biểu diễn tại rất nhiều nơi và tiếp thu được tinh hoa của nhiều loại hình âm nhạc như những bài hát Neapolitan, thủ pháp đối vị của Đức và các bản giao hưởng của Haydn. Chính điều này giúp cho trong các vở opera của Mozart có được sự cân bằng giữa các nghệ sĩ đơn ca và hợp xướng, giữa ca sĩ và dàn nhạc. Là người người đương thời và chịu ảnh hưởng từ quan điểm sáng tác của Gluck, tuy nhiên Mozart lại quan niệm: “lời thoại trong opera phải là cô gái biết nghe lời âm nhạc”. Âm nhạc của Mozart trong các tác phẩm nói chung và opera nói riêng trong sáng, tinh tế, thánh thiện và đẹp một cách diệu kì. Trong bộ 3 opera Mozart kết hợp với nhà chuyên viết lời cho các vở opera Lorenzo da Ponte là Le nozze di Figaro (1786), Don Giovanni (1787) và Così fan tutte(1790) thì ngoài Così fan tutte là viết theo đơn đặt hàng nên có chất lượng nghệ thuật không cao còn 2 tác phẩm kia đều là những tuyệt tác. Âm nhạc đầy chất thơ, kết hợp hài hòa giữa hát và hát nói. Đặc biệt là việc phát huy vai trò của duet, lấy duet làm trung tâm cho sự phát triển kịch tính của opera. Hơn nữa, trong các vở opera này, Mozart đã sử dụng rất thành thạo các hợp ca từ terzet đến septet, điều gần như không xuất hiện trong các vở opera trước đó của ông. Trong Don Giovanni, lần đầu tiên kèn trombone có mặt trong biên chế dàn nhạc và âm nhạc của màn cuối được vang lên ngay trong phần overture, điều này cho thấy ảnh hưởng của Gluck đối với Mozart. Với Die entführung aus dem Serail (1782) và đặc biệt là Die Zauberflöte(1791) – vở opera cuối cùng của Mozart, singspiel đã đạt đến đỉnh cao chưa từng thấy. Trong Die Zauberflöte, sự trộn lẫn của triết học, tính ẩn dụ, chất lãng mạn, màu sắc huyền bí, hóm hỉnh khiến cho vở opera không chỉ đạt được thành công to lớn ngay sau khi mới ra đời mà còn trở thành một trong những tác phẩm được ưa thích nhất hiện nay. Chính những vở singspiel này đã mở ra con đường phát triển cho opera lãng mạn Đức sau này.

4/ Ludwig van Beethoven và Fidelio:

Fidelio (1814) là vở opera duy nhất của Ludwig van Beethoven (1770 – 1827) và cũng là tác phẩm khiến Beethoven tốn nhiều công sức nhất. Ông bắt đầu sáng tác từ năm 1804 (bản tiếng Ý) nhưng bản tiếng Đức như ngày nay chúng ta thưởng thức thì được biểu diễn lần đầu tiên vào năm 1814. Fidelio là vở opera có hình thức singspiel với nội dung thuộc trào lưu rescue opera. Tuy nhiên, ban đầu Beethoven không có ý định sáng tác opera mà Fidelio ra đời là do bực mình về sự không chung thuỷ trong Così fan tutte và lòng nhiệt tình bắt nguồn từ cuộc Cách mạng Pháp 1789, chính vì vậy Fidelio còn được gọi là “Người con gái của Cách mạng Pháp 1789”. Các aria và recitativo có kĩ xảo khó nhưng điểm nổi bật nhất của vở opera là vai trò của dàn nhạc. Có thể nói, Beethoven là một trong những người tiên phong trong việc “giao hưởng hóa” opera, mà sau này Wagner là người ưu tú nhất. Âm nhạc của Fidelio gần với Gluck và Handel – người mà Beethoven rất kính trọng nhưng mang chất lãng mạn rất cao. Chính vì vậy, có thể coi “Fidelio” là viên gạch đầu tiên của opera Lãng mạn Đức thế kỉ 19.

III/ Thời kì Lãng mạn:

Thế kỷ 19, thời kì Lãng mạn là thời kỳ mà chủ nghĩa dân tộc lên cao nhất. Tính dân tộc được bộc lộ rõ ràng hơn bao giờ hết. Cùng với sự phát triển của văn học, hội hoạ, âm nhạc cổ điển nói chung và opera nói riêng có sự thay đổi rất rõ rệt. Thời kì này cũng chứng kiến sự hồi sinh ngoạn mục của opera Ý sau một thời gian dài khủng hoảng nhưng các nước khác như Đức, Pháp, Nga, Czech… cũng có được những vở opera đỉnh cao mang tính thời đại. Hơn nữa các qui tắc cũng dần dần bị phá bỏ tạo nên sự đa phong cách trong âm nhạc, qui mô và nội dung tác phẩm. Đề tài thần thoại và anh hùng ca phổ biến trong thời kì Baroque và Cổ điển dần dần được thay thế bởi các câu truyện đời thường và những sự kiện xã hội. Các nhạc sĩ đã trở thành những nhà soạn nhạc tự do, không phải lệ thuộc vào những nhà qúy tộc nên họ hoàn toàn tự do trong công việc sáng tác của mình.

1/ Opera Lãng mạn Ý:

a) Bel canto:
Đầu thế kỷ 19, tại Ý sự xuất hiện của 3 nhạc sỹ: Rossini, Donizetti và Bellini với các vở opera mang đậm phong cách bel canto đã để lại cho chúng ta một kho tàng vô giá các tuyệt tác.
Bel canto (hát đẹp) là một nghệ thuật hát có tại nước Ý từ thế kỷ 17 nhưng được phát triển mạnh nhất trong những thập niên đầu tiên của thế kỷ 19. Ba nhạc sĩ trên là những nhà soạn nhạc trung thành với trường phái này và cũng là những người đưa bel canto đến đỉnh cao nhất. Tên gọi của 3 nhạc sĩ cũng đồng nghĩa với bel canto, họ được coi là những người khổng lồ của bel canto.
Đặc điểm chính của opera bel canto là sự chú trọng đến kỹ thuật và vẻ đẹp của giọng hát. Các vở opera sáng tác sao cho các ca sỹ có thể phô diễn được tối đa giọng hát của mình. Trong các vở opera thời kỳ này vai chính thường được dành cho các giọng nam cao và nữ cao (đặc biệt là giọng Soprano coloratura). Toàn bộ âm vực (chủ yếu ở âm vực cao) và kỹ thuật Staccato được khai thác triệt để.

Thời kì này xuất hiện thêm một thuật ngữ: opera semiseria (opera nửa nghiêm). Opera semiseria gần giống với opera buffa, có nhiều yếu tố hài hước nhưng nội dung cảm động, có bối cảnh ở vùng đồng quê. Vở opera nổi tiếng nhất thuộc thể loại này là Linda di Chamounix của Donizetti. Ngoài ra, La sonnambula của Bellini cũng có thể liệt vào thể loại này.

Các vở opera buffa của Gioacchino Rossini (1792 – 1868) là những mẫu mực cho thể loại này, đặc biệt là trong giai đoạn 1813 – 1817 với L’Italiana in Algeri (1813), Il Turco in Italia (1814), Il Barbiere di Siviglia (1816) và La Cenerentola (1817). Trong đó Il Barbiere di Siviglia đã trở thành một tuyệt tác, sự kết hợp hài hoà và vẻ đẹp tuyệt với của các aria, recitativo, dàn nhạc và hợp xướng là những gì mà ta có thể thấy được trong vở opera này. Bên cạnh đó Rossini cũng viết opera seria như các vở Tancredi (1813) và Otello (1816). Có một thời gian dài Rossini ở Paris và các vở opera cuối cùng của ông ra đời ở đây như Le Comte Ory (1828) và Guillaume Tell (1829) trong đó Guillaume Tell là tiền đề cho sự ra đời cho các vở opéra grande của Pháp sau này. Đóng góp cơ bản nhất của Rossini là loại bỏ revitativo secco (recitativo không nhạc đệm), tăng sức biểu cảm của dàn nhạc, đồng thời Rossini đã khai thác được tối đa ưu thế của từng giọng hát nhờ vào khả năng am tường kĩ thuật hát bel canto truyền thống. Sau một thời gian dài opera Ý chìm khuất sau opera của Gluck và Mozart, chính Rossini là khiến opera Ý trở lại với vị trí vốn có của nó.

Phong cách sáng tác của Rossini là mạnh mẽ, sôi nổi và dân dã trong khi nhạc sỹ cùng thời với ông, Vincenzo Bellini (1801 – 1835) lại có cái gì đó rất quí phái và yếu đuối. Trong các vở opera của Bellini, các nhân vật luôn mang một chút gì hơi u sầu, phiền muộn. Bellini viết các vở opera của mình cho các ca sỹ hàng đầu thời bấy giờ, chính vì vậy độ khó của tác phẩm là rất lớn và đòi hỏi phải là những giọng hát xuất sắc nhất mới có thể trình diễn được. Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, Bellini đã để lại 11 vở opera trong đó tuyệt vời nhất là bộ 3 nổi tiếng: La Sonnambula (1831); Norma (1831) và I Puritani (1835). Bellini qua đời ở độ tuổi 34, đúng lúc tài năng đang độ sung sức nhất.
Trung dung giữa Rossini và Bellini đồng thời cũng có số lượng các vở nhiều nhất là Gaetano Donizetti (1797 – 1848). Donizetti sáng tác gần 70 vở opera. Không tạo được sự duyên dáng như Bellini, không có được sự sôi nổi như Rossini nhưng Donizetti là người tạo được sự cân bằng giữa chất trữ tình và sự kịch tính trong các vở opera của mình. Donizetti chính là người có ảnh hưởng lớn đến Verdi sau này. Tài năng của Donizetti được thừa nhận khá muộn, đến vở opera thứ 33 của mình Anna Bolena (1830) thì ông mới được biết đến và từ đó thì ông trở nên rất nổi tiếng. Donizetti sáng tác opera chủ yếu bằng tiếng Ý và đôi khi bằng tiếng Pháp. Vở opera tiếng Pháp nổi tiếng nhất của ông là La fille du regiment (1840). Tuy nhiên đỉnh cao nhất của opera là các vở L’elisir d’amore (1832) và Lucia di Lammermoor (1835).
b) Giuseppe Verdi:
Rossini, Donizetti và Bellini vẫn là những nhạc sỹ chịu ảnh hưởng của opera thế kỷ 18 và các tác phẩm của họ thể hiện chủ nghĩa lãng mạn qua ca từ nhiều hơn là âm nhạc. Chủ nghĩa dân tộc đã xuất hiện nhưng vẫn chưa được bộc lộ rõ rệt và chưa thể thoát khỏi cái bóng của nước Áo (khi đó đang xâm lược và chiếm đóng nước Ý). Chỉ đến khi một nhân vật vĩ đại xuất hiện thì nước Ý mới có một biểu tượng thật sự để chống lại sự lấn át của người áo. Con người vĩ đại đã giương cao 2 lá cờ: chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa lãng mạn chính là Giuseppe Verdi.
Giuseppe Verdi (1813 – 1901) là một nhạc sỹ thiên tài, người đã nói lên tiếng nói của nhân dân, người đã cùng với những người con yêu nước đã chiến đấu để giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh với quân Áo vào năm 1848.
Là người đã bị nhạc viện Milano từ chối nhận vào học năm 1832 nhưng chỉ 10 sau, với sự ra mắt vở opera Nabucco (1842) tại La Scala, Verdi đã trở thành biểu tượng không chỉ của thành phố Milano mà còn của cả nước Ý. Tiếp theo thành công của Nabucco là sự xuất hiện của các vở I Lombardi (1843), Ernani (1844), Macbeth (1847) và Luisa Miller (1849). Tuy nhiên tên tuổi của Verdi thực sự được lưu danh trong lịch sử opera khi có sự xuất hiện của 3 vở opera: Rigoletto (1851), La Traviata(1853) và Il Trovatore (1853). Đây là những kiệt tác trong kho tàng opera của nhân loại và đến tận bây giờ các nhà phê bình vẫn chưa thể thống nhất được với nhau đâu là vở xuất sắc hơn. Vẻ đẹp trong giai điệu, sức mạnh của dàn hợp xướng và sự lộng lẫy của dàn nhạc đã tạo cho bộ 3 trên một sức hấp dẫn kỳ diệu.
Trong các năm tiếp theo, Verdi hướng đến các vở opera có qui mô đồ sộ hơn như Don Carlo (1867) và đặc biệt là Aida (1871) – vở opera sáng tác theo đơn đặt hàng của hoàng gia Ai Cập nhân dịp khánh thành kênh đào Suez.
Khi đã ở tuổi ngoài 70, Verdi sáng tác một trong những vở xuất sắc nhất của mình: Otello (1887) theo lời đề nghị của Arrigo Boito (1842 – 1918) – một người bạn, tác giả vở opera “Mefistofele”. Boito cũng chính là người khuyên Verdi sáng tác vở opera cuối cùng và cũng là vở opera hài mang phong cách opera buffa nổi tiếng duy nhất của ông: Falstaff (1893).
Nhìn một cách tổng thể, âm nhạc của Verdi đã làm thay đổi opera Ý. Không bị quá câu nệ vào ca từ, các giai điệu vụn vặt và sự phô trương quá đáng của giọng hát, opera của Verdi đã dung hoà được giữa âm nhạc, lời hát và tính kịch tạo nên vẻ đẹp hài hoà nhưng vẫn làm nổi bật lên tính dân tộc và sự lãng mạn. Đặc biệt các trích đoạn hợp xướng trong opera của Verdi thực sự là những lời kêu gọi lòng yêu nước, là tiếng thét bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Ý, rất phù hợp với bối cảnh nước Ý thời bấy giờ.
c) Verismo:
Là một trường phái opera của Ý ra đời khi sự nghiệp của Verdi đã gần đi vào giai đoạn cuối. Verismo (chân thực) là trường phái bao trùm lên nước Ý vào những năm cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 với mục đích phơi bày hiện thực trần trụi của xã hội đương thời nhằm phản đối và đả kích những vở opera mang màu sắc thần thoại của Wagner. Có rất nhiều nhạc sỹ nổi tiếng thuộc trường phái Verismo như Pietro Mascagni (1863 – 1945) với Cavalleria rusticana (1890), Ruggero Leoncavallo (1858 – 1919) với Pagliacci (1892), Umberto Giordano (1867 – 1948) với Andrea Chenier (1896). Tuy nhiên nhạc sỹ nổi tiếng nhất phải kể đến Giacomo Puccini (1858 – 1924). Là tác giả của nhiều vở opera nổi tiếng như: La Bohème (1897); Tosca (1900); Madama Butterfly (1904) và Turandot (1824) (Puccini qua đời khi chưa viết xong 2 cảnh cuối và vở opera được Franco Alfano hoàn thành vào năm 1926) Puccini đã đóng góp vào kho tàng opera thế giới những vở opera tràn đầy những cảm xúc mạnh mẽ với giai điệu đẹp thể hiện mọi cung bậc của tâm hồn. Không có những hợp xướng hào hùng và hoành tráng như trong Verdi, cũng không có các overture tuyệt diệu và thủ pháp sử dụng dàn nhạc một cách tinh tế như trong nhạc kịch của Rossini, tâm điểm trong các opera của Puccini luôn là các aria hay duet đẹp một cách diệu kỳ. Nhiều nhà phê bình đã nhận xét rằng trong opera Ý, sau các tên tuổi Rossini và Verdi phải nói đến Puccini.

2/ Opera Lãng mạn Đức:

Sau sự tiên phong của Beethoven, opera Lãng mạn Đức được nối tiếp bằng Weber và đặc biệt là Wagner
Carl Maria von Weber (1786 – 1826) chính là người đưa opera lãng mạn Đức lên đỉnh cao. Xuất phát điểm là một nghệ sỹ Piano tài năng và trong các chuyến lưu diễn vòng quanh châu Âu của mình, bị cuốn hút bởi các vở opera của Mozart và Rossini nên đã bắt tay vào sáng tác opera. Và thế là vào năm 1821 Der Freischütz – vở opera Lãng mạn thực sự đầu tiên của Đức ra đời. Thường xuyên sử dụng recitativo và có kết cấu theo kiểu cổ điển Der Freischütz đã trở thành đỉnh cao của Singspiel. Sau này Weber có sáng tác thêm nhiều vở opera khác như Euryanthe (1823) hay Oberon (1826) nhưng không một vở nào có thể vượt qua được Der Freischütz. Weber có ảnh hưởng rất to lớn đến Wagner sau này. Có người thậm chí còn nhận xét, nếu như không có Weber thì cũng chưa chắc đã có Wagner.
Là một hiện tượng vô cùng đặc biệt trong nền âm nhạc cổ điển thế giới, sự xuất hiện của Richard Wagner (1813 – 1883) đã gây nên rất nhiều sự tranh cãi trong suốt thế kỷ 19 và kéo dài cho đến tận bây giờ và không biết bao giờ mới chấm dứt. Người gọi Wagner là thiên tài, kẻ lại dè bỉu gọi ông là thằng điên nhưng qua năm tháng thời gian các vở opera dần dần chiếm lĩnh các nhà hát nổi tiếng và có một điều không có gì phải bàn cãi là rất nhiều các nhạc sỹ sau này lại chịu ảnh hưởng từ ông. Ông chính là người đưa opera Đức lên đến đỉnh cao nhất và là bậc thầy trong việc “giao hưởng hóa opera”. Luôn viết lời cho các opera của mình, quan điểm sáng tác vĩ đại nhất của ông là thay vì tất cả mọi thứ trong vở opera như kịch bản, lời thoại, các yếu tố sân khấu sinh ra chỉ để phục vụ âm nhạc thì riêng đối với Wagner lại ngược hẳn lại tất cả mọi thứ từ âm nhạc, lời ca chỉ để phục vụ cho một kịch bản có sẵn mà thôi. Hay nói một cách ngắn gọn, trong opera của Wagner âm nhạc phục vụ tính kịch thay vì tính kịch phục vụ âm nhạc như những gì mà opera vốn có kể từ thời Mozart hay thậm chí là trước cả Mozart cho đến nay. Thực ra âm nhạc phục vụ tính kịch vốn là quan điểm của Gluck và đã được Berlioz kế tục nhưng người đưa nó lên mức đỉnh cao và coi đó là chân lý thì chính là Wagner. Một trong những cải cách quan trọng mang tính thời đại của Wagner là sử dụng leitmotif (motif chủ đạo). Đây là một câu nhạc ngắn xuyên suốt vở opera chủ yếu nhằm đại diện cho tính cách, tâm tư tình cảm của nhân vật. Khi leitmotif xuất hiện thì đồng nghĩa với việc nhân vật đó sẽ xuất hiện trên sân khấu. Điều quan trọng là mỗi khi phát triển tình huống kịch, thể hiện sâu hơn về tư tưởng, tình cảm nhân vật, dự báo sự biến hóa hay ẩn dụ một sự kiện, liên hệ hay nói rõ mối quan hệ giữa các đối tượng, tăng cường sự phát triển hay phong phú thêm nội hàm của nhân vật, khi đó xuất hiện leitmotif. Wagner cũng là người xóa nhòa đi ranh giới giữa aria và recitativo. Bên cạnh đó, Wagner sử dụng khá nhiều hòa thanh nửa cung (cromatic), dự báo cho những cách tân âm nhạc trong thế kỉ 20.
Vở opera thành công đầu tiên của Wagner là Rienzi (1842), tuy nhiên vở này vẫn còn chịu nhiều ảnh hưởng từ opéra grande của Pháp. Vở opera đầu tiên mà Wagner gây dựng được phong cách đặc trưng của mình là Der fliegende Holländer (1843). Tuy nhiên vở này vẫn còn hơi hướng của phong cách opera Ý qua cách sử dụng aria và chorus. Chỉ đến khi xuất hiện Tannhäuser (1845) và Lohengrin (1850) thì thực sự tên tuổi Wagner mới được cả châu Âu biết đến. Rất may mắn cho Wagner là ông được Franz Liszt – người sau này trở thành bố vợ ông ủng hộ và đích thân Liszt đã nhiều lần chỉ huy các vở opera của Wagner.

Trong giai đoạn từ 1852 đến cuối đời là thời kỳ sáng tác đỉnh cao của Wagner. Lúc này thay vì dùng từ opera các vở nhạc kịch của Wagner được gọi là music – drama. Đã có một thời gian dài Wagner phải sống lưu vong tại Thụy Sỹ do hậu quả từ cuộc cách mạng năm 1848. Trong thời gian này Wagner đã nảy ra ý tưởng sáng tác “Der Ring des Nibelungen” mà sau này không chỉ trở thành công trình đồ sộ nhất của ông mà còn của cả nền opera cổ điển châu Âu. Sau năm 1860 là thời kỳ thăng hoa trong sự nghiệp sáng tác của ông, hàng loạt các vở opera nổi tiếng ra đời trong thời gian này: Tristan und Isolde (1865), Die Meistersinger von Nürnberg (1868) và 2 phần đầu của “Der Ring des Nibelungen” là Das Rheingold (1869) và Die Walküre(1870). Tất cả các vở này đều được trình diễn tại Munich vì vua Ludwig II của xứ Bavarian là người rất hâm mộ Wagner, thậm chí nhà vua còn cho xây dựng nhà hát Bayreuth Festspielhaus vào năm 1876 để chuyên trình diễn các opera của Wagner. Hai phần sau của “Der Ring des Nibelungen” là Siegfried (1876) và Götterdämmerung (1876) cũng được trình diễn tại đây. Vở opera cuối cùng của Wagner là Parsifal (1882).

3/ Opera Lãng mạn Pháp:

Opera Lãng mạn Pháp có thể chia ra làm 3 dòng chính: opéra grande; opéra comique và operetta.
a) Opéra grande:
Bắt nguồn từ Guillaume Tell của Rossini, opéra grande là những vở opera đồ sộ thường có độ dài từ 4 – 5 tiếng và thường là 5 màn, trong đó hoàn toàn là hát không sử dụng recitativo cũng như hội thoại. Trong opéra grande thường xuyên sử dụng incidental music và ballet. Các tác giả tiêu biểu cho trường phái này là Meyerbeer và Berlioz.
Giacomo Meyerbeer (1791 – 1864) tuy là người Đức nhưng sống tại Venice từ năm 1815 vì ngưỡng mộ Rossini. Trong thời gian ở đây, Meyerbeer đã sáng tác được 6 vở opera bằng tiếng Ý nhưng đều không nổi tiếng. Thất vọng, Meyerbeer chuyển đến Paris, tạm thời không sáng tác nữa và lao vào nghiên cứu opera Pháp. Đến khi tìm lại được cảm hứng sáng tác, Meyerbeer viết 6 vở opera bằng tiếng Pháp và đã tạo lập được một trường phái riêng đồng thời gây dựng được uy tín trên khắp châu Âu. Vở opera xuất sắc nhất của Meyerbeer là Les Huguenots (1836), ngoài ra vở L’Africaine (1865) được hoàn thiện sau khi ông mất cũng khá nổi tiếng.
Hector Berlioz (1803 – 1869) cũng là một hiện tượng khá kỳ lạ trong nền âm nhạc cổ điển châu Âu. “Người nhạc sỹ duy nhất không biết chơi piano” này say mê Gluck và tôn thờ quan điểm sáng tác âm nhạc phục vụ tính kịch của Gluck. Trong 2 vở opera “Benvenuto Cellini” (1838) và “Les Troyens” (1858) Berlioz triệt để tuân thủ qui tắc này. Berlioz tỏ ra rất tâm đắc với “Les Troyens”, ông coi đó là “tác phẩm đã toả ra ánh sáng bất diệt của chủ nghĩa lãng mạn đồng thời kết hợp hài hoà với quan điểm sáng tác của Gluck”.
Ngoài hai nhạc sỹ trên còn có một số các nhạc sỹ khác cũng có những vở opéra grande nổi tiếng, trong đó tiêu biểu là Jacques Halevy (1799 – 1862) với La Juive (1835). Cả hai nhạc sỹ Meyerbeer và Berlioz đều có ảnh hưởng đến Wagner sau này.
b) Opéra comique:
Là thể loại opera phổ biến nhất của Pháp trong thế kỷ 19 và không hề có chút gì hài hước ở trong thể loại này mặc dù có tên là comique. Trong opéra comique hoàn toàn không sử dụng recitativo mà thay vào đó là hội thoại.
Đỉnh cao của opéra comique chính là Carmen (1875) của Georges Bizet (1838 – 1875). Là học trò tại Nhạc viện Paris của Halevy, Bizet đã có những vở opera khá nổi tiếng như Les pêcheurs de perles (1863) hay La jolie fille de Perth (1867) nhưng phải đến khi Carmen xuất hiện thì Bizet mới thực sự trở thành tên tuổi sáng chói trong nền âm nhạc lãng mạn Pháp. Dựa trên truyên ngắn cùng tên của nhà văn Pháp Prosper Merimee hình tượng cô gái Digan Carmen xinh đẹp đã đi vào lịch sử âm nhạc thế giới như là một biểu tượng của khát vọng tự do và làm say mê biết bao người yêu nhạc trên toàn thế giới. Tuy nhiên trong thời gian đầu khi trình diễn, Carmen đã bị các nhà phê bình chỉ trích rất nhiều vì họ cho rằng ca ngợi một cô gái Digan bỏ anh này yêu anh kia như thế là quá lố bịch. Qua năm tháng, những lời dị nghị đã bị xua tan và ngày nay Carmen đã trở thành một trong vở opera được trình diễn nhiều nhất và tất nhiên được yêu thích nhất.
Bên cạnh Bizet, một người học trò khác của Halevy là Charles Gounod (1818 – 1893) cũng là tác giả của nhiều vở opera xuất sắc. Trong số hơn 10 vở opera của mình, các vở Mireille (1864), Roméo et Juliette (1867) và đặc biệt là Faust (1859) dựa trên trường ca cùng tên của Goethe là những tác phẩm thường xuyên được biểu diễn nhất.
Jules Massenet (1842 – 1912) cũng là tác giả của nhiều opéra comique nổi tiếng như Manon (1884), (1885), Werther (1892), Thaïs (1894) và Don Quichotte (1910). Là tác giả của nhiều bản giao hưởng, concerto nổi tiếng, Camille Saint-Saëns (1835 – 1921) còn được biết đến với vở opera Samson et Dalila (1877) dựa trên một câu chuyện quen thuộc trong Kinh thánh. Ngoài ra ta còn có thể kể đến Ambroise Thomas (1811 – 1896) với Mignon (1866) và Hamlet (1868) trong đó Hamlet là vở opera đầu tiên có sử dụng saxophone hay Léo Delibes (1836 – 1891) với Lakmé (1883).
c) Operetta:
Nguồn gốc của operetta là các vở opera ngắn của thế kỷ 18. Đến thế kỷ 19, operetta được dùng làm tên gọi chung để chỉ các vở opera có nội dung nhẹ nhàng, hài hước. Ban đầu operetta chỉ có một màn sau này phát triển thành 2 hoặc thậm chí 3 màn. Operetta phát triển mạnh nhất ở Pháp, sau đó ở Áo và một số nước khác tại châu Âu.
Jacques Offenbach (1819 – 1880) nhà soạn nhạc người Pháp có nguồn gốc Đức là tác giả của hơn 90 vở operetta trong đó có những tác phẩm rất nổi tiếng như “Orphée aux enfers (1858), La vie Parisienne (1866) hay Les contes d’Hoffmann (1880). Do có nội dung nhẹ nhàng, ngắn gọn, dễ hiểu nên operetta được rất đông đảo nhân dân lao động Pháp thời kỳ đó yêu thích.
Sự ra đời của operetta tại nước Áo được giải thích là sự kết hợp giữa singspiel và các vở hài kịch thời kỳ đó. Người đi tiên phong trong lĩnh vực này là Franz von Suppe (1819 – 1895). Ông là tác giả của các vở operetta như Dichter und Bauer (1846), Leichte Cavallerie (1866), Boccaccio (1879). Với sự xuất hiện của Johann Strauss II (1825 – 1899) operetta Áo đã được cả châu Âu biết đến. Bên cạnh những bản waltz, polka tuyệt vời, Strauss II cũng là tác giả của nhiều vở operetta trong đó được biết đến nhiều nhất là vở Die Fledermaus (1874).

4) Opera Lãng mạn Nga và Czech:

Nền Opera lãng mạn Nga phát triển muộn hơn đôi chút so với các nước Ý, Đức hay Pháp, tuy nhiên chính vì sự chậm trễ này mà nước Nga lại được thừa hưởng những tinh hoa của các nước kia. Các vở opera của Nga luôn mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa dân tộc không chỉ vì nội dung các vở opera đều lấy từ các tác phẩm văn học Nga mà còn vì chính quan điểm sáng tác của các nhạc sỹ. Từ Glinka, Tchaikovsky đến nhóm “Hùng mạnh” đều có khát khao cháy bỏng tạo dựng một nền âm nhạc cổ điển Nga hùng mạnh.
Có thể dễ dàng nhận thấy rằng sức mạnh từ những trang viết của đại thi hào Pushkin không chỉ tạo ảnh hưởng đến “Thời đại vàng” của văn học Nga mà còn là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhạc sỹ Nga sáng tác nên các vở opera của mình.
Sau thành công ban đầu của A Life for the Tsar (1836), Mikhail Glinka (1804 – 1857) bắt tay vào viết vở opera thứ hai của mình Russlan and Ludmilla (1842) dựa theo trường ca của Pushkin – người bạn thân thiết của ông. Đây được coi là vở opera xuất sắc đầu tiên của nền âm nhạc cổ điển Nga. Tuy mang nhiều yếu tố thần thoại và khá dài (gồm 5 màn) nhưng tác phẩm đã gây được tiếng vang rất lớn ra khỏi biên giới nước Nga và được các khán giả ở Đức, Ý, Pháp … rất yêu thích, đặc biệt là phần overture.
Cũng là người vô cùng ngưỡng mộ Pushkin, trong số hơn 10 vở opera của mình Peter Ilyich Tchaikovsky (1840 – 1893) thì có đến 3 vở là có nội dung từ các tác phẩm của Pushkin. Đó là các vở “Eugene Onegin” (1879), Mazeppa (1883) và The Queen of Spades (1890). Đây đều là các vở opera rất nổi tiếng nhưng trong đó tuyệt vời nhất phải kể đến Eugene Onegin. Là tác phẩm phản ánh trung thực đời sống nước Nga thế kỷ 19, Eugene Onegin của Tchaikovsky đã vượt ra khỏi các bóng Eugene Onegin của Pushkin để tạo nên một hiện tượng thực sự. Những bữa tiệc vui vẻ, những vũ hội sang trọng của giới thượng lưu cho đến niềm vui của những người nông dân sau một vụ mùa bội thu là những gì đã trở nên quá quen thuộc với ông và Tchaikovsky đã sáng tác với một sự hứng thú khôn xiết. Tchaikovsky quan niệm rằng mình là người Nga tại sao lại phải quan tâm đến những chuyện xa lạ ở tận Ai Cập, Ba Tư? Mình không hiểu được những suy nghĩ của họ, thì làm sao mà miêu tả họ chính xác được? Quan niệm này của Tchaikovsky được giới văn nghệ sỹ nước Nga thời đó chia sẻ và đồng tình. Có thể quan niệm này có nhiều hạn chế nhưng dù sao thì cũng phải công nhận rằng chính lòng tự tôn dân tộc đã khiến cho Eugene Onegin trở thành một tuyệt tác. Biết bao người dân Nga say mê “Eugene Onegin thậm chí đốí với họ không đọc Eugene Onegin của Pushkin và không xem Eugene Onegin của Tchaikovsky thì không phải là người Nga.
Là một thành viên của nhóm “Hùng mạnh”, Modest Mussorgsky (1839 – 1881) là tác giả của hai vở opera lớn mang tính chất sử thi: Boris Godunov và Khovanshchina, trong đó tác phẩm đầu là dựa theo vở kịch cùng tên của Pushkin. Được hoàn thành năm 1868 nhưng được biểu diễn lần đầu tiên năm 1874 sau khi đã có sự sửa chữa, Boris Godunov được các nhà phê bình đánh giá rất cao coi đó là một công trình bất hủ, sự kết hợp tuyệt vời giữa âm nhạc và tính kịch, thể hiện được sâu sắc thế giới nội tâm của nhân vật và làm nổi bật lên hình ảnh của nhân dân Nga. Cái chết đã ngăn cản Mussorgsky hoàn thành Khovanshchina cũng như không cho Alexander Borodin (1833 – 1887) – một thành viên khác của nhóm “Hùng mạnh” viết nốt kiệt tác của mình: vở opera Prince Igor. Tuy nhiên bằng tài năng cũng như sự am hiểu sâu sắc ý đồ sáng tác của những người bạn của mình, Nikolai Rimsky-Korsakov (1844 – 1908) – cũng là một thành viên trong nhóm đã hoàn thiện các tác phẩm này như ngày nay chúng ta đang thưởng thức. Không chỉ có vậy, Rimsky-Korsakov cũng là tác giả của nhiều vở opera xuất sắc như Snow Maiden (1882) hay The Golden Cockerel (1908).
Bên cạnh các nước Ý, Đức, Pháp, Nga, thời kì Lãng mạn còn chứng kiến sự thành tựu trong các sáng tác nói chung và opera nói riêng của những nhạc sĩ người Czech. Bedrich Smetana (1842 – 1884) là người sáng lập trường phái âm nhạc Czech. Trong bối cảnh Czech đang bị nước Áo chiếm đóng, những sáng tác trong thời gian đầu của Smetana thể hiện sự vùng dậy đấu tranh, phản kháng, thể hiện tinh thần yêu nước. Ông đã từng phải sống lưu vong tại Thụy Sĩ. Năm 1861, ông quay trở về Czech và lao vào xây dựng nền âm nhạc dân tộc và một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông: vở opera The Bartered Bride (1866) ra đời trong thời kì này. Đây là vở opera viết theo phong cách opera buffa nhưng mang những đặc trưng rất rõ nét của âm nhạc dân gian vùng Bohémia. Đó là sử dụng rất nhiều vũ khúc Polka. Nối tiếp thành công của Smetana, Antonín Dvorak (1841 – 1904) là người đưa âm nhạc Czech lên đến đỉnh cao. Thành tựu chủ yếu của Dvorak là những bản giao hưởng và concerto nhưng trong lĩnh vực opera, Dvorak cũng để lại một tác phẩm rất đáng chú ý, đó là vở Rusalka (1901). Trong vở opera này Dvorak cho thấy ông chịu ảnh hưởng từ Wagner khi sử dụng leitmotif.

IV/ Thời kì Hiện đại:

Thời kì Lãng mạn chấm dứt cũng gần với mốc xảy ra cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918), thời kì đề cao những cảm xúc đã cho thấy dấu hiệu suy tàn, những mô hình sáng tác opera kiểu cũ đã không còn được mến mộ, mở ra một thời kì mới vẫn còn trong giai đoạn tìm tòi và thử nghiệm. Lúc này, opera không còn là sản phẩm của riêng châu Âu mà đã có những nhạc sĩ sáng tác opera người Mĩ. Những khuôn mẫu cũ kĩ đã bị phá bỏ nhường chỗ cho những sự phá cách.
Vở opera đi tiên phong cho sự phá cách chính là Pelléas et Mélisande (1902) của Claude Debussy (1862 – 1918), vở opera duy nhất của Debussy này được sáng tác sau khi nhà soạn nhạc thử nghiệm một sự gắn kết giữa âm nhạc và kịch bản theo kiểu mà Wagner đã làm với Tristan und Isolde. Tuy nhiên, Debussy đã đi theo một phong cách trái ngược với Wagner. Trong khi ở “Tristan und Isolde” tràn trề tính anh hùng ca và sử dụng nhiều chromatic thì với Pelléas et Mélisande, âm nhạc trở nên thanh nhã với nhịp điệu tự nhiên dựa trên những hòa thanh mới lạ, đúng với trường phái “Ấn tượng” mà Debussy là người khai sáng. Trong số những nhạc sĩ người Pháp, Francis Poulenc (1899 – 1963) rất đáng chú ý với Dialogues des Carmélites(1953). Đây là vở opera viết theo phong cách lãng mạn với giai điệu đẹp, tinh tế.
Trong những năm đầu tiên của thế kỉ 20, sự xuất hiện của nhạc sĩ người Đức Richard Strauss (1864 – 1949) được coi như sự nối nghiệp của Wagner. Thành công đầu tiên mà Strauss gặt hái được là với 2 vở opera một màn Salome (1905) và Elektra(1909). Trong những vở opera này, những hòa âm nghịch tai ban đầu đã khiến khán giả rất khó chịu nhưng sau đó, những hòa âm này trở nên phổ thông trong các sáng tác của các nhạc sĩ khác sau đó. Đây cũng là những vở opera mà Strauss trong đó có sử dụng atonal (âm nhạc vô điệu tính), một sự cách tân vô cùng táo bạo. Bên cạnh đó, Strauss cũng sáng tác những vở opera mang tính chất trữ tình, lãng mạn theo khuynh hướng truyền thống, tiêu biểu cho phong cách này là vở opera Der Rosenkavalier (1911). Ngoài ra Strauss còn sáng tác nhiều vở opera nổi tiếng khác như: Ariadne auf Naxos (1916), Die Frau ohne Schatten (1919), Intermezzo (1924), Arabella (1933), Daphne (1938) và Capriccio (1942).
Wagner còn có ảnh hưởng những nhạc sĩ thuộc trường phái Vienna mới là Schoenberg, Webern và Berg. Trong đó, người có thành tựu lớn về opera nhất là nhạc sĩ người Áo Alban Berg (1885 – 1935). Những vở opera của Berg cho thấy một sự cách tân triệt để thông qua sự chối bỏ có suy nghĩ những hòa thanh phổ thông để hướng tới những âm thanh gay gắt –điểm nổi bật của khuynh hướng chủ nghĩa biểu hiện. Wozzeck (1925) và đặc biệt là Lulu (1935) – được một người bạn hoàn thiện sau khi Berg qua đời, vở opera được hoàn toàn sáng tác theo ngôn ngữ dodecaphony (hệ 12 âm) là những vở opera khắc họa những con người cô độc hoảng loạn, căng thẳng và đau khổ, mang tính hiện đại rất cao.
Ngoài những tìm tòi, khám phá mới, nhiều nhạc sĩ vẫn duy trì phong cách sáng tác opera theo khuynh hướng dân tộc dù cho cũng có những sự cách tân nhất định. Ta có thể kể đến nhạc sĩ Franz Lehár (1870 – 1948). Nhà soạn nhạc người Hungary gốc Áo Lehár được Dvorak khuyến khích sáng tác và ông nổi tiếng với những vở operetta. Với vở operetta Die lustige witwe (1905) được công diễn, ông đã trở nên nổi tiếng và được gọi là “Johann Strauss tái thế”. Ông cũng là tác giả của những vở operetta đáng chú ý như: Der graf von Luxemburg (1909), Das land des lächelns (1928). Nhà soạn nhạc Belá Bartok (1881 – 1945) được coi là một trong những nhạc sĩ vĩ đại nhất của thế kỉ 20. Được biết đến như là một trong những người vô cùng say mê âm nhạc dân gian, ngoài những thành tựu đáng kinh ngạc về khí nhạc, Bartok còn sáng tác vở opera duy nhất Bluebeard’s Castle (1911) mang tính ngụ ngôn rất cao.
Tiếp bước Smetana và Dvorak, nhạc sĩ người Czech Leos Janácek (1854 – 1928) đã sáng tác nhiều vở opera nổi tiếng trong thế kỉ 20 như Jenufa (1904), Kát’a Kabanová (1921) hay The cunning little vixen (1924). Đặc điểm của những vở opera này là nhạc sĩ đã khai thác tinh hoa âm nhạc dân gian Czech và vận dụng hợp lí ngôn ngữ Czech vào giai điệu của vở opera và Janácek sáng tác opera luôn dựa trên kịch bản từ những tác phẩm văn xuôi. Vở opera cuối cùng của ông là From the house of the dead (1928) dựa theo tiểu thuyết “Bút kí ngôi nhà chết” của đại văn hào người Nga Dostoyevsky.
Nước Nga thời kì đầu thế kỉ 20 xảy ra nhiều biến động, sự thành công của cuộc cách mạng tháng 10 đã khiến nền âm nhạc Nga trở thành nền âm nhạc Xôviết với tư tưởng tiến bộ, giàu lòng yêu nước, tràn đầy khí thế cách mạng. Trong thời kì giao thời, 2 nhạc sĩ Sergei Rachmaninov (1873 – 1943) và Igor Stravinsky (1882 – 1971) đã để lại nhiều vở opera có giá trị. Với Rachmaninov là những vở opera như The miserly knight (1905) và Francesca da Rimini (1905) mang phong cách lãng mạn, trữ tình, với âm hưởng âm nhạc Nga rõ rệt gần với những tác phẩm khí nhạc của ông. Còn Stravinsky là nhạc sĩ tham dự vào hầu hết những khuynh hướng âm nhạc quan trọng của thế kỉ 20. Những vở opera của ông như Oedipus rex (1927), The Rake’s Progress (1951) là những vở opera gần với oratorio nên có thuật ngữ opera – oratorio để chỉ những vở opera này. Âm nhạc của những tác phẩm này mang phong cách Neo-classicism (tân cổ điển) với tiết tấu, hòa thanh rất độc đáo. Và dù rằng vẫn sử dụng aria, duet, terzet, recitativo nhưng khác xa với phong cách truyền thống của opera Ý.
Rachmaninov và Stravinsky là những nhạc sĩ lưu vong, còn Prokofiev và Shostakovich là những người sống tại đất nước Xôviết. Sergei Prokofiev (1881 – 1953) thời trẻ sống chủ yếu tại nước ngoài và trong thời kì này, ông sáng tác khá nhiều nhưng các tác phẩm của ông quá thấm đẫm phong cách âm nhạc dân tộc Nga nên không được thính giả phương Tây chấp nhận, điển hình là vở opera The love for three oranges (1919). Thời kì hoàng kim trong sáng tác opera của Prokofiev đến sau khi ông quay trở về đất nước Xôviết. Đỉnh cao của ông trong thời kì này chính là vở opera hoành tráng mang đầy tính sử thi War and Peace (1952) dựa theo bộ tiểu thuyết cùng tên của Lev Tolstoi. Tác phẩm đã kế thừa truyền thống của Mussorgsky, tràn đầy sự kịch tính, âm nhạc mang tính giao hưởng rất cao. Nhà soạn nhạc Xôviết Dmitri Shostakovich (1906 – 1975) là tác giả của vở opera Lady Macbeth of Mtsensk (1934) bị chính quyền Xô viết, đứng đầu là Stalin phê phán nhưng hiện nay, vở opera được coi là một trong những vở opera xuất sắc nhất của thế kỉ 20.
Nền opera Anh từ sau sự xuất hiện của Purcell và Handel đã bị trầm luân trong hơn 200 năm cho đến khi xuất hiện Benjamin Britten (1913 – 1976) thì mới khởi sắc trở lại. Được coi là nhà soạn nhạc hiện đại xuất sắc nhất nước Anh, ông là tác giả của nhiều vở opera nổi tiếng, ngày nay được biểu diễn thường xuyên như: Peter Grimes (1945), Billy Budd (1951) A Midsummer Night’s Dream (1960), Death in Venice (1973).
Trong phần cuối này, xin nói qua một chút về opera Mĩ – một nền opera còn rất non trẻ. Từ cuối thế kỉ 19, đã có một số nhạc sĩ châu Âu sang làm việc tại Mĩ, mở đầu là Dvorak. Trong những cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và đặc biệt là thứ 2, rất nhiều những nhạc sĩ chọn nước Mĩ là nơi sinh sống của mình như Schoenberg, Stravinsky, Bartok, Hindemith. Đây là điều rất tuyệt vời cho những nhạc sĩ bản xứ. Họ có cơ hội được tiếp thu những tinh hoa của âm nhạc cổ điển châu Âu, đồng thời sự kết hợp với kho tàng âm nhạc dân gian vô cùng phong phú của người da đỏ, da đen đã khiến những sáng tác của họ trở nên mới lạ, độc đáo, không bị rập khuôn trở thành bản sao mờ nhạt của những nhạc sĩ đến từ Cựu lục địa. Mở đầu cho trào lưu này là vở The pipe of desire (1910) của Frederick Converse (1871 – 1940) – vở opera đầu tiên của một nhạc sĩ Mĩ được biểu diễn tại Metropolitan Opera. Nhạc sĩ Samuel Barber (1910 – 1981) cũng sáng tác 2 vở opera cho Metropolitan Opera là Vanessa(1958) và Antony and Cleopatra (1966). Tuy nhiên 2 nhạc sĩ đáng kể nhất của Mĩ trong thế kỉ 20 phải kể đến Copland và Gershwin. Nhạc sĩ Aaron Copland (1900 – 1990) – được suy tôn là “đỉnh cao của những nhà soạn nhạc Mĩ”. Vở opera The tender land (1954) của ông là một tác phẩm tràn đấy sức sống, màu sắc âm nhạc phong phú, đa dạng. Porgy and Bess (1935) của George Gershwin (1898 – 1937) là vở opera của Mĩ gây được tiếng vang nhất tại châu Âu khi được công diễn tại Milan, Ý vào năm 1955. Đây là vở opera kết hợp rất thành công giữa nhạc cổ điển và nhạc jazz cũng như âm nhạc dân gian châu Mĩ, chủ yếu là nhạc của người da đen. Khi công diễn lần đầu tiên, toàn bộ diễn viên là do người da đen đảm nhiệm, điều chưa từng có trong tiền lệ Lịch sử opera.
Tác giả: Ngọc Hòa sưu tầm

R&B là gì? Tìm hiểu về nhạc R&B

0
xr:d:DAFwIZNcBzw:1537,j:2442494021628367167,t:24013015

Nhạc R&B, viết tắt của Rhythm and Blues, là một thể loại âm nhạc đa dạng và phong phú, đánh dấu sự hòa trộn độc đáo giữa nhịp điệu sôi động và giai điệu đầy cảm xúc. Xuất phát từ những năm 1940, R&B nhanh chóng trở thành một nguồn cảm hứng quan trọng cho nhiều thế hệ nghệ sĩ và người hâm mộ trên khắp thế giới.

R&B là gì?

Nhạc R&B hay còn được biết đến với những cái tên như RnB hay rhythm và blues, là một thể loại âm nhạc có nguồn gốc từ cộng đồng người Mỹ gốc Phi vào những năm 40 của thế kỷ 20. R&B có sự kết hợp của ba thể loại chính: Blues, Jazz và nhạc phúc âm.

Ban đầu, R&B thường viết về nỗi đau, sự phân biệt chủng tộc và màu da của những người gốc Phi ở Mỹ. Về sau, nhạc R&B đa dạng hơn về nội dung, ca từ và được công chúng khắp thế giới yêu thích. RnB được ví như một bản nhạc có nhịp điệu và tâm trạng với khả năng nhanh chóng chạm tới cảm xúc của người nghe.

Lịch sử hình thành của dòng nhạc R&B

Thể loại âm nhạc này bắt nguồn từ những năm 1940 từ cộng đồng người Mỹ gốc Phi. Thuật ngữ này ban đầu được sử dụng để mô tả các bản ghi âm do các công ty thu âm hướng đến cộng đồng người da màu.

Vào những năm 1950, R&B đề cập đến một phong cách âm nhạc kết hợp giữa nhạc Blues, nhạc Phúc âm và nhạc Soul.

Đến những năm 1970, R&B thay đổi và được dùng như một thuật ngữ để mô tả dòng nhạc Soul & Funk. Thể loại âm nhạc này dần dần phát triển trên khắp thế giới và kết hợp nhiều yếu tố của các thể loại âm nhạc: Pop, hip hop và dance.

Sự phát triển của nhạc R&B

Mặc dù thể loại âm nhạc này đã xuất hiện từ lâu nhưng phải đến năm 1949, thể loại âm nhạc này mới được Jerry Wexler đặt tên là Rhythm and Blues. Theo thời gian, R&B được biết đến với cái tên nhạc Soul và không còn thuộc về người Mỹ gốc Phi nữa.

Nhiều nghệ sĩ nổi tiếng đã dấn thân vào thể loại âm nhạc này nhưng họ vẫn bị ảnh hưởng rất nhiều từ các cựu ca sĩ như: Chubby Checker, Sam Cooke,… Quan niệm âm nhạc của người Mỹ gốc Phi khá kén người nghe và cảm nhận. Sự xuất hiện của R&B đã xóa bỏ khái niệm này, vượt qua sự phân biệt chủng tộc và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn.

Trước đây, R&B chỉ sử dụng những nhạc cụ thô sơ bằng gỗ hoặc đồng để đệm cho bài hát của mình. Nhưng hiện nay, thể loại âm nhạc này đã phát triển hơn khi kết hợp với nhiều loại nhạc cụ hiện đại mang đến sự đa dạng và phong phú hơn trong giai điệu.

Đặc điểm âm nhạc R&B

Nhịp điệu và giai điệu đặc trưng

Một trong những đặc điểm nổi bật của R&B là nhịp độ nhanh, vui tươi và dễ nhảy theo nhịp điệu. Đặc điểm này tạo cảm giác sôi động, sôi động cho người nghe. Giai điệu R&B thường độc đáo, kết hợp các yếu tố của nhạc blues, jazz và pop.

Sự kết hợp giữa nhạc cụ và giọng hát

R&B thường kết hợp các nhạc cụ như piano, guitar và trống với giọng hát đặc biệt. Những giai điệu, giai điệu phức tạp kết hợp với giọng hát đầy cảm xúc tạo nên một bản nhạc đa dạng và thú vị.

Lời bài hát và thông điệp được truyền tải

  • Lời bài hát R&B thường truyền tải những câu chuyện về tình yêu, cuộc sống và cảm xúc của con người.
  • Thông điệp của các ca khúc R&B thường sâu sắc và mang tính nhân văn, tạo sự gắn kết, đồng cảm cho người nghe.

Các loại hình của dòng R&B

R&B cổ điển

Bắt đầu vào khoảng những năm 1940 và kết thúc vào cuối những năm 1960. Âm nhạc được sản xuất vào đầu thời kỳ này chủ yếu chịu ảnh hưởng của thể loại Jazz. Các nhạc cụ chính được sử dụng là bộ gõ, trống, gỗ, piano và giọng hát.

Nhưng nếu Jazz đề cao sự ngẫu hứng thì với R&B, người biểu diễn tập trung vào sự chuẩn bị kỹ lưỡng, có âm sắc và nhịp điệu mạnh mẽ hơn. Những ca khúc R&B cổ điển mang màu sắc buồn, giai điệu mộc mạc, giản dị cùng thông điệp bày tỏ nỗi đau về sự bất công và phân biệt chủng tộc, được sáng tác bởi các nhạc sĩ người Mỹ gốc Phi.

R&B hiện đại

Nó bắt đầu từ những năm 1970 và tiếp tục cho đến ngày nay. Càng ngày, R&B hiện đại càng ít đặc trưng của Jazz hay Blues, dù vẫn lấy cảm hứng từ hai thể loại này với ca từ nhấn mạnh và vướng víu hơn.

Tác phẩm sẽ kết hợp với nhiều thể loại âm nhạc khác như Pop, Funk, nhạc cụ biểu diễn cũng mang nhiều yếu tố công nghệ hơn. Vì vậy, R&B dễ tiếp cận hơn với nhiều người nghe hơn và truyền tải nhiều âm sắc khác nhau.

Những ca khúc R&B hiện đại được nhiều nhạc sĩ trên thế giới thể hiện, đa dạng hơn về cung bậc cảm xúc, luôn lôi cuốn, đa dạng hơn cả về ca từ lẫn nhịp điệu. Vũ đạo luôn là một phần quan trọng trong biểu diễn R&B. Càng ngày, vũ đạo trong các tác phẩm thuộc thể loại này càng phức tạp hơn trước.

Âm sắc của R&B

R&B được người Mỹ gốc Phi sáng tạo ra trong quá trình đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và vì tự do. Đó là lý do tại sao tông màu buồn tượng trưng cho nỗi đau. Mỗi bản nhạc R&B sẽ dẫn dắt người nghe cảm nhận qua những tầng nhạc khác nhau. Từ nhẹ nhàng, uyển chuyển, mềm mại đến thô ráp, mạnh mẽ…

Lời của các ca khúc R&B được đặt theo phong cách Blues thời kỳ đầu, các câu hát liên tục và lặp đi lặp lại nhiều lần. Nhạc R&B không chỉ thể hiện những cảm xúc buồn bã mà còn giúp người nghe xoa dịu tâm hồn. Nếu buồn, tổn thương, bạn có thể bật giai điệu của những ca khúc R&B để cảm thấy thoải mái, dễ chịu hơn.

Nhạc cụ của R&B được chia làm hai bộ phận, bao gồm:

  • Bộ phận giữ nhịp điệu: Trống, piano, guitar hoặc có thể là organ, keyboard.
  • Bộ hơi: saxophone,Trumpets đôi khi có trombone.

Nhạc R&B đã khẳng định vị thế của mình trong làng nhạc thế giới như một thể loại âm nhạc đa dạng và phong phú. Từ những nguồn gốc đơn giản tại các cộng đồng người Mỹ gốc Phi, R&B đã phát triển và hội tụ nhiều yếu tố âm nhạc độc đáo, từ nhịp điệu nồng nàn cho đến giọng hát cảm xúc. Thể loại này không chỉ đơn thuần là một dòng nhạc mà còn là một cách thể hiện cảm xúc, tôn vinh những trạng thái tâm hồn khác nhau.

Khám phá R&B là gì? Các dòng nhạc và thể loại âm nhạc RnB thịnh hành qua mọi giai đoạn

Khám phá R&B là gì? Đây không chỉ là một thể loại âm nhạc được nhiều người yêu thích mà còn là biểu tượng của cảm xúc và sự sôi động. R&B, RnB hay Rhythm and Blues, pha trộn những âm điệu đặc trưng từ lịch sử âm nhạc Mỹ, tạo nên một dòng nhạc độc đáo và cuốn hút.

R&B hiện đại, thường được gọi là Contemporary R&B, là một sự pha trộn của âm nhạc soul, funk, pop, và thậm chí hip-hop. Đặc trưng của R&B hiện đại là sự kết hợp giữa nhạc lý và hòa âm của soul với các bản phối điện tử và nhịp điệu sôi động của hip-hop.

RnB nổi bật với nhịp điệu gõ và bass mạnh mẽ, thường xuyên sử dụng drum beats và bass lines để tạo ra một cảm giác cuốn hút và sôi động.

Nhạc RnB là gì?

Sự phát triển của nhạc R&B là gì?

RnB bắt nguồn từ các cộng đồng người Mỹ gốc Phi trong những năm 1940 và 1950. Ban đầu, nó là một sự tiếp nối của blues truyền thống, nhưng dần dần hòa nhập các yếu tố từ jazz và gospel. Trong những năm 1950 và 1960, R&B bắt đầu lấy cảm hứng từ rock and roll, làm mở rộng đối tượng người nghe và ảnh hưởng đến nền âm nhạc Mỹ. Trong những năm 1960 và 1970, RnB tiếp tục phát triển và trở thành nền tảng cho sự ra đời của soul và funk. Vào những năm 1980 và 1990, với sự xuất hiện của các công nghệ ghi âm mới, R&B hiện đại bắt đầu hình thành, kết hợp của các yếu tố điện tử và pop, đánh dấu sự chuyển mình sang âm thanh điện tử và nhịp điệu đặc trưng.

R&B không chỉ là thể loại âm nhạc, nó còn là một phần của văn hóa đại chúng, phản ánh và ảnh hưởng đến các xu hướng thời trang, điện ảnh và văn hóa cộng đồng. Nhạc R&B thường xuất hiện trong các bộ phim, chương trình truyền hình, và là lựa chọn hàng đầu trong các sự kiện âm nhạc và lễ hội. Với ảnh hưởng sâu rộng của mình, R&B đã trở thành một trong những thể loại âm nhạc hấp dẫn nhất trong lịch sử âm nhạc đương đại.

Sự phát triển của nhạc R&B là gì?

Các loại hình của dòng nhạc R&B là gì?

Dòng nhạc R&B, với lịch sử phong phú và đa dạng, đã phát triển qua nhiều thập kỷ và tạo ra nhiều phong cách âm nhạc khác nhau. Mỗi loại hình của R&B mang một đặc trưng riêng biệt, phản ánh các giai đoạn lịch sử, xu hướng văn hóa và sự đổi mới trong âm nhạc.

1. R&B truyền thống (Classic R&B)

  • Đặc điểm: Lấy cảm hứng từ blues và jazz, R&B truyền thống có nhịp điệu chậm hơn, chú trọng vào giai điệu và hòa âm.
  • Đại diện: Ray Charles, Aretha Franklin, Otis Redding.
  • Đây là nền tảng cho nhiều thể loại R&B sau này, kết hợp cảm xúc của blues và những yếu tố nhịp điệu sáng tạo.

2. Soul và Funk

  • Đặc điểm: Soul kết hợp R&B với gospel, tạo ra một âm thanh đầy cảm xúc và truyền cảm. Funk, một nhánh của soul, nổi bật với nhịp bass và drum rõ ràng, tạo ra những bản nhạc sôi động và năng động.
  • Đại diện: Marvin Gaye, James Brown, Stevie Wonder.
  • Đây là thời kỳ hoàng kim của R&B, với sự phổ biến rộng rãi và ảnh hưởng đến nhiều thể loại âm nhạc khác.

3. Contemporary R&B

  • Đặc điểm: Đây là sự pha trộn giữa R&B với pop, hip-hop và thậm chí là electronic music. Contemporary R&B có âm thanh hiện đại, nhấn mạnh vào sản xuất và kỹ thuật ghi âm.
  • Đại diện: Beyoncé, Usher, Rihanna.
  • Là sự đổi mới và thích nghi với thời đại, Contemporary R&B không chỉ phổ biến trong cộng đồng người Mỹ gốc Phi mà còn được yêu thích trên toàn thế giới.

4. Neo-Soul

  • Đặc điểm: Neo-Soul là sự quay trở lại với những yếu tố truyền thống của soul, nhưng với một cảm nhận hiện đại. Nó thường kết hợp các yếu tố của jazz, funk và hip-hop.
  • Đại diện: Erykah Badu, D’Angelo, Lauryn Hill.
  • Neo-Soul không chỉ là sự trở lại với nguồn cội mà còn là cách thể hiện sự tinh tế và sáng tạo trong âm nhạc R&B.

5. Alternative R&B

  • Đặc điểm: Đây là phong cách R&B kết hợp với các yếu tố của indie và electronic music, tạo ra một âm thanh độc đáo và thường không tuân theo khuôn mẫu truyền thống.
  • Đại diện: Frank Ocean, The Weeknd, FKA Twigs.
  • Alternative R&B thể hiện sự đa dạng và linh hoạt của thể loại này, mở ra không gian sáng tạo mới cho các nghệ sĩ.

Các loại hình của dòng nhạc R&B là gì?

R&B là một thế giới âm nhạc đa dạng với nhiều phong cách khác nhau, từ truyền thống đến hiện đại, từ sâu lắng đến sôi động. Thông qua sự biến đổi và thích nghi liên tục, R&B đã và đang tiếp tục khẳng định vị thế của mình trong lòng người yêu nhạc trên toàn thế giới.

Những nghệ sĩ R&B nổi bật đình đám

R&B, với sự phong phú và đa dạng của mình, đã sản sinh ra nhiều nghệ sĩ tài năng và nổi tiếng, bao gồm các huyền thoại như Aretha Franklin, Stevie Wonder và Marvin Gaye, cũng như các nghệ sĩ đương đại như Beyoncé, Usher và Rihanna. Những nghệ sĩ này không chỉ tạo ra những bản hit đình đám mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến văn hóa âm nhạc toàn cầu.

Dưới đây là một số nghệ sĩ R&B nổi bật, từ những huyền thoại đến các ngôi sao hiện đại.

Huyền thoại R&B

  • Aretha Franklin: Được mệnh danh là “Nữ hoàng của Soul”, Aretha Franklin không chỉ là biểu tượng của R&B mà còn là hình ảnh của sức mạnh và tự do. Các bản hit như “Respect” và “I Say a Little Prayer” đã trở thành những bài hát kinh điển.
  • Stevie Wonder: Với khả năng sáng tác và biểu diễn xuất sắc, Stevie Wonder đã trở thành một trong những nghệ sĩ R&B vĩ đại nhất mọi thời đại. Ông không chỉ nổi tiếng với giọng hát đặc biệt mà còn với những sáng tác sâu sắc và mang tính cách mạng.

Huyền thoại R&B

Ngôi sao R&B hiện đại

  • Beyoncé: Với sự nghiệp solo sau Destiny’s Child, Beyoncé đã nhanh chóng trở thành một trong những nghệ sĩ R&B hàng đầu thế giới. Cô nổi tiếng với giọng hát mạnh mẽ, vũ đạo điêu luyện và những MV đầy tính sáng tạo.
  • Usher: Là một trong những ngôi sao dòng nhạc R&B đình đám nhất những năm 2000, anh nổi tiếng với các bản hit như “Yeah!” và “Burn”. Anh không chỉ là ca sĩ mà còn là vũ công và diễn viên tài năng.

Ngôi sao R&B hiện đại

Những tài năng R&B mới

  • The Weeknd: Với phong cách âm nhạc đặc biệt và giọng hát đầy cảm xúc, The Weeknd đã nhanh chóng chiếm được cảm tình của khán giả trên toàn thế giới. Anh nổi tiếng với những bản hit như “Blinding Lights” và “Can’t Feel My Face”.
  • SZA: Là một trong những giọng ca mới nổi bật nhất của thập kỷ, SZA đã gây ấn tượng mạnh với giọng hát độc đáo và phong cách âm nhạc đa dạng, từ neo-soul đến alternative R&B.

Những tài năng R&B mới

Những nghệ sĩ R&B nổi bật này không chỉ tạo ra âm nhạc xuất sắc mà còn là những biểu tượng văn hóa, thể hiện sức mạnh, đa dạng và sự phát triển không ngừng của dòng nhạc này. Họ đã và đang góp phần làm phong phú thêm di sản âm nhạc R&B, đồng thời tạo dựng nên những chuẩn mực mới cho thế hệ nghệ sĩ tiếp theo.

Những ca khúc R&B hay nhất 2024

Chọn lọc những ca khúc R&B hay nhất là một việc không hề dễ dàng bởi hàng loạt bản hit đình đám. Dưới đây là một số ca khúc R&B nổi bật, từ những bản cổ điển đến những bài hát hiện đại, đã ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng người hâm mộ.

Ca khúc R&B cổ điển

  • “I Heard It Through the Grapevine” – Marvin Gaye: Một trong những bản hit đỉnh cao của Marvin Gaye, ca khúc này đã trở thành biểu tượng của R&B trong những năm 1960.
  • “Respect” – Aretha Franklin: Không chỉ là một ca khúc R&B kinh điển, “Respect” còn trở thành một bản quốc ca không chính thức cho phong trào dân quyền và phụ nữ.

Ca khúc R&B hiện đại

  • “Umbrella” – Rihanna (ft. Jay-Z): Đây không chỉ là một bản hit toàn cầu mà còn đánh dấu sự nổi lên của Rihanna như một trong những nghệ sĩ R&B hàng đầu.
  • “Blinding Lights” – The Weeknd: Với giai điệu bắt tai và phối khí hiện đại, “Blinding Lights” đã nhanh chóng trở thành một trong những bài hát R&B phổ biến nhất thời đại.

Ca khúc R&B đương đại

  • “Leave the Door Open” – Silk Sonic (Bruno Mars và Anderson Paak): Sự kết hợp hoàn hảo giữa Bruno Mars và Anderson .Paak đã tạo ra một bản hit R&B vừa mang âm hưởng cổ điển, vừa hiện đại.
  • “Good Days” – SZA: Một bản nhạc R&B nhẹ nhàng, sâu lắng, mang phong cách đặc trưng và tinh tế của SZA.

Danh sách trên chỉ là một phần nhỏ trong kho tàng âm nhạc R&B phong phú. Mỗi ca khúc R&B, dù cổ điển hay hiện đại, đều mang một thông điệp riêng và thể hiện sự sáng tạo không ngừng của các nghệ sĩ. Những bài hát này không chỉ là những tác phẩm âm nhạc xuất sắc mà còn góp phần tạo nên bản sắc và diện mạo của dòng nhạc R&B qua các thời kỳ.

Những ca khúc R&B hay nhất 2024

Chọn loa thế nào để nghe nhạc R&B hay và chuẩn nhất?

Nghe nhạc không chỉ là một cách thư giãn sau những giờ làm việc căng thẳng mà còn giúp nạp năng lượng và tạo cảm hứng trong cuộc sống hàng ngày. Trải nghiệm nghe nhạc sẽ trở nên tuyệt vời hơn khi bạn thưởng thức những bài hát yêu thích qua một chiếc loa chất lượng.

Chọn loa phù hợp với không gian

Khi chọn loa, bạn nên cân nhắc kích thước phù hợp với không gian nghe để đảm bảo trải nghiệm âm nhạc tốt nhất mà không làm ảnh hưởng đến người xung quanh. Một chiếc loa quá lớn trong một không gian nhỏ có thể tạo ra âm thanh chói và không cân đối, trong khi loa quá nhỏ trong không gian lớn lại không đủ sức lan tỏa.

Lựa chọn loa theo dòng nhạc

Việc lựa chọn loa cũng cần phải tương thích với dòng nhạc bạn yêu thích. Đối với những người yêu thích nhạc R&B, việc chọn loa cần đặc biệt chú trọng đến khả năng tái tạo âm bass sâu và chi tiết âm thanh rõ ràng. Khi chọn loa để nghe nhạc R&B, điều quan trọng là cần tìm kiếm loa có khả năng tái tạo chính xác các dải âm thanh từ trầm đến cao. Loa cần có độ đáp tần rộng, cũng như khả năng thể hiện chi tiết âm nhạc và nhịp điệu đặc trưng của R&B. Các loại loa có thiết kế bass mạnh và rõ ràng cũng được ưa chuộng trong việc thưởng thức nhạc R&B.

Chọn thương hiệu uy tín

Khi mua loa, việc lựa chọn sản phẩm từ các thương hiệu uy tín sẽ đảm bảo bạn nhận được chất lượng âm thanh tốt nhất cùng với chế độ bảo hành hợp lý. Điều này giúp bạn yên tâm hơn với quyết định đầu tư của mình.

Chọn loa thế nào để nghe nhạc R&B hay và chuẩn nhất

Lời kết

R&B không chỉ là một thể loại âm nhạc, mà còn là một phần không thể thiếu của di sản văn hóa đương đại. Nó đã và đang tiếp tục phát triển, mở rộng và ảnh hưởng đến nhiều thể loại âm nhạc khác. Với sự đa dạng trong âm nhạc và tầm ảnh hưởng sâu rộng, R&B chắc chắn sẽ tiếp tục là một phần quan trọng của lịch sử âm nhạc thế giới. Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết và cùng FPT Shop tìm hiểu R&B là gì, hãy cháy cùng những giai điệu mà bạn yêu thích mỗi ngày nhé!

Tác giả: Minh Đức (sưu tầm)

Nhạc Pop là gì? Tìm hiểu định nghĩa nhạc Pop ở từng thời kỳ

0
Nhạc Pop là gì? Thể loại nhạc Pop có nguồn gốc xuất hiện và phổ biến từ Anh, Mỹ vào những năm 1950. Hiện nay, Pop được đánh giá là thể loại nhạc được yêu thích nhất hiện nay. Vậy, những đặc điểm nổi bật nào đã tạo nên sức hấp dẫn của nhạc Pop? Hãy cùng Mua Bán tham khảo ngay những định nghĩa cũng như quá trình phát triển của nhạc Pop dưới đây.
Nhạc Pop là gì
Nhạc Pop là gì

1. Định nghĩa về Nhạc Pop

Chắc hẳn, bạn đã nghe nhiều về các ca sĩ nhạc Pop nổi tiếng, những bản nhạc Hot, Hit trên các bảng xếp hạng âm nhạc? Nhưng bạn có biết rõ định nghĩa nhạc Pop là gì chưa?

Nhạc Pop hay còn gọi là Pop Music là viết tắt của thuật ngữ tiếng Anh Popular Music, tạm dịch ra nghĩa là dòng nhạc phổ thông, phổ biến trong làng nhạc đại chúng. Hoặc, nhạc Pop còn được gọi là âm nhạc đại chúng theo cách hiểu của người Việt.

Nhạc Pop là gì? Là dòng nhạc phổ thông, phổ biến trong làng nhạc đại chúng
Nhạc Pop là gì? Là dòng nhạc phổ thông, phổ biến trong làng nhạc đại chúng

Pop xuất hiện từ Anh, Mỹ vào những năm 1950 và cuối những năm 1950 thì Pop được xem như thể loại Jazz phi cổ điển. Ở Anh vào những năm 1960, thuật ngữ về nhạc Pop có sự cạnh tranh giữa “Beat” và “Pop; trong khi ở Mỹ thì Pop lại được gọi là “Rock and Roll”. Đến cuối năm 1960 thì Pop và Rock mới tách ra và phát triển theo 2 hướng khác biệt. Đến 1967 thì thể loại Pop đã trở nên riêng biệt hoàn toàn với những dòng nhạc khác.

Thể loại Pop là sự pha trộn vô cùng hài hòa giữa các yếu tố âm nhạc khác nhau
Thể loại Pop là sự pha trộn vô cùng hài hòa giữa các yếu tố âm nhạc khác nhau

Thể loại Pop là sự pha trộn vô cùng hài hòa giữa các yếu tố âm nhạc khác nhau như Rock, R&B, Jazz và Dance… Thậm chí, Pop còn mang âm hưởng của nhạc dân gian hoặc cả nhạc điện tử. Nhạc Pop ngày càng được lan rộng và phổ biến trên khắp thể giới, trong đó có cả Việt Nam. Ca từ của nhạc Pop thường đa dạng, chứa đựng nhiều cảm xúc khác nhau, và đa số thường là chủ đề về tình yêu.

2. Quá trình phát triển của nhạc Pop

Để hiểu rõ hơn nhạc Pop là gì, bạn có thể tìm hiểu quá trình phát triển của thể loại nhạc Pop trên thế giới và ở Việt Nam, cụ thể

2.1 Trên thế giới

Trên thế giới, vào thập niên 1980 thì nhạc Pop có 2 ngôi sao nổi bật nhất và có những thành công nhất là Madonna và Michael Jackson. Đây là 2 ngôi sao nhạc Pop được người hâm mộ công nhận là “Ông hoàng nhạc Pop” và “Nữ hoàng nhạc Pop”. Một số ngôi sao khác cũng nổi tiếng trong giai đoạn này như Air Supply, Janet Jackson, Lionel Richie…

Michael Jackson được mệnh danh là "Ông hoàng nhạc Pop"
Michael Jackson được mệnh danh là “Ông hoàng nhạc Pop”

Đến thập niên 1990, nhạc Pop xuất hiện thêm một số ngôi sao nổi tiếng khác như Mariah Carey, Celine Dion, Boyz II Men, Whitney Houston… Giai đoạn từ 1997 – 1999, nhiều ca sĩ đã lựa chọn thể loại Pop làm dòng nhạc phát triển cho bản thân. Ở thời điểm này, nổi bật nhất phải kể đến Backstreet Boys, 98 Degrees, Westlife…

Celine Dion là một trong những ngôi sao nhạc Pop nổi tiếng trong những năm 1990
Celine Dion là một trong những ngôi sao nhạc Pop nổi tiếng trong những năm 1990

Những năm đầu thập niên 2000, dòng nhạc Pop xuất hiện thêm 2 cái tên sáng chói là Christina Aguilera và Britney Spears. Đỉnh cao nhất của Pop là vào 2006, sự ra đời của phim âm nhạc High School Musical đã xuất hiện thêm nhiều tên tuổi nổi tiếng của Disney. Như Selena Gomez, Miley Cyrus, Raven – Symone’… Đến những năm gần đây thì Pop vẫn đang cực hot với những ca khúc được yêu thích như Despacito hay That girl…

2.2 Tại Việt Nam

Việt Nam, cũng có khá nhiều ca sĩ lựa chọn nhạc Pop để khởi đầu cho sự nghiệp ca hát  của họ. Cụ thể, cuối những năm 1980 thì nhạc Pop mới bắt đầu phát triển tại Việt Nam. Một số tên tuổi nổi tiếng cho thể loại Pop trong giai đoạn này như Hồng Nhung, Thanh Lam, Mỹ Linh, Trần Thu Hà (hay còn gọi là Hà Trần). Đặc biệt, có đến khoảng 95% ca sĩ Việt Nam được đào tạo đều chọn nhạc Pop để phát triển sự nghiệp của mình.

Thanh Lam là một trong những ca sĩ nổi tiếng ở Việt Nam lựa chọn nhạc Pop để phát triển sự nghiệp
Thanh Lam là một trong những ca sĩ nổi tiếng ở Việt Nam lựa chọn nhạc Pop để phát triển sự nghiệp

Một số ngôi sao nhạc Pop Việt Nam khác được khán giả đón nhận như Hồ Quỳnh Hương, Mỹ Tâm. Giai đoạn này này có Bùi Anh Tuấn hoặc Văn Mai Hương… Những ca từ mềm mại và trữ tình của nhạc Pop là khởi đầu được cho là an toàn nhất.

>>> Đừng bỏ lỡ: Học Nhạc Viện Ra Làm Gì? Đâu Là Lối Đi Cho Sinh Viên Thanh Nhạc?

3. Những đặc điểm của nhạc Pop

Để hiểu rõ hơn nhạc Pop là gì, bạn có thể tham khảo một số đặc điểm cụ thể của nhạc Pop dưới đây:

  • Mục tiêu đưa ra của nhạc Pop là thu âm thương mại nhằm thu hút khán giả đại chúng trong khoảng thời gian ngắn. Chính vì thế, phong cách cũng như đặc điểm của nhạc Pop là gì sẽ tùy thuộc vào từng thời kỳ và địa điểm nó xuất hiện cụ thể.
  • Phong cách âm nhạc của thể loại Pop có sự ảnh hưởng của R&B (Rhythm & Blues), phúc âm và Soul cũng như các yếu tố trong âm nhạc truyền thống của người Mỹ gốc Phi.
  • Nhịp điệu và âm thanh của Pop chịu ảnh hưởng ít nhiều từ Rock and Roll, Disco, Swing Jazz và gần nhất là có sự ảnh hưởng của Hip Hop.
  • Điểm nổi bật nhất của giai điệu nhạc Pop là gì? Đó là sự đơn giản, bắt tai, dễ nhớ và có sự nhấn mạnh rõ ràng vào nhịp điệu.
Đặc điểm của nhạc Pop là gì? Là sự lặp lại trong cấu trúc bài hát, đảo phách
Đặc điểm của nhạc Pop là gì? Là sự lặp lại trong cấu trúc bài hát, đảo phách
  • Pop có sự lặp lại trong cấu trúc bài hát, đảo phách hay là sự rút gọn thành đoạn Riff. Trong các ca khúc Pop thường có một đoạn thơ, một đoạn điệp khúc và mỗi đoạn mang chất liệu âm nhạc khác nhau.
  • Những bài hát nhạc Pop thường nói về tình yêu, khiêu vũ với sự uyển chuyển và mềm mại trong các giai điệu.

4. Một bài nhạc Pop có cấu trúc như thế nào?

Nhạc Pop thường không được viết hay biểu diễn, ghi lại như các bản concerto hay giao hưởng. Vậy, cấu trúc cơ bản của nhạc Pop là gì? Vào năm 1900, đĩa than 10inch có thể chứa được âm thanh phát trong thời lượng từ 3 – 5 phút. Sau khi đĩa than 12inch ra đời, thời lượng chứa độ dài âm thanh cũng chỉ kéo dài từ 4 – 5 phút. Nếu thời gian thu âm nhiều hơn thì sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của âm thanh.

Cấu trúc cơ bản của nhạc Pop là gì, là dựa vào lịch sử phát triển của đĩa than
Cấu trúc cơ bản của nhạc Pop là gì, là dựa vào lịch sử phát triển của đĩa than

Chính vì vậy, một bài nhạc Pop sẽ bao gồm các câu với một điệp khúc được lặp lại nhiều lần. Cấu trúc chuẩn của nhạc Pop xuất phát tính chất lịch sử từ những chiếc đĩa than thu âm bài hát. Độ dài của một bản nhạc Pop thông thường kéo dài từ 3 – 4 phút, và không vượt quá độ dài 4 phút. Tuy nhiên, trên thế giới cũng có những bài hát ngoại lệ với độ dài vượt qua tiêu chuẩn thông thường.

>>> Tham khảo thêm: Ca sĩ là gì? Liệu có phải 1 công việc đáng mơ ước?

5. Những nghệ sĩ vĩ đại của làng nhạc Pop thế giới

Có thể chưa biết nhạc Pop là gì nhưng chắc chắn, bạn đã từng nghe qua tên một số nghệ sĩ nổi tiếng trong thể loại Pop dưới đây:

5.1 Michael Jackson (29/8/1958 – 25/6/2009)

Michael Jackson là ca sĩ – nhạc sĩ và là vũ công nổi tiếng người Mỹ. Ông được khán giả hâm mộ đặt cho cái tên là “Ông hoàng nhạc Pop”. Michael Jackson cũng được xem là một trong những nhân vật văn hóa quan trọng nhất trong khoảng thế kỷ 20. Năm 1983, Michael Jackson trình làng lối nhảy độc đáo của ông đánh dấu đỉnh cao của sự nghiệp.

Có thể chưa biết nhạc Pop là gì nhưng chắc chắn bạn đã từng nghe đến tên Michael Jackson
Có thể chưa biết nhạc Pop là gì nhưng chắc chắn bạn đã từng nghe đến tên Michael Jackson

Một số bài hát nổi tiếng nhất của Michael Jackson phải kể đến như: We Are The World, Smooth or White, Heal the World, Gone Too Soon, Thriller…  Trong sự nghiệp của mình, Michael Jackson cũng đã đạt được nhiều giải thưởng danh giá trong lĩnh vực âm nhạc. Một số giải thưởng mà ông nhận được như Grammy cho Album của năm, giải thưởng Âm nhạc Mỹ; giải Video âm nhạc của MTV, giải thưởng Âm nhạc Thế giới….

5.2 Madonna

Tên đầy đủ của Madonna là Madonna Louise Ciccone, bà sinh ngày 16/8/1958. Madonna là ca sĩ – nhạc sĩ và là diễn viên người Mỹ rất nổi tiếng. Bà được mệnh danh là “Nữ hoàng nhạc Pop” và là một trong những nhân vật văn hóa nổi bật vào cuối thế kỷ 20. Vào khoảng thập niên 1980, Madonna bắt đầu có những bước tiến đáng chú ý trong sự nghiệp ca hát của mình. Một số bản hit nổi tiếng của bà trong thời kỳ này được nhiều người yêu thích như Lucky Star, Borderline, Like a Virgin…

Madonna được mệnh danh là “Nữ hoàng nhạc Pop”
Madonna được mệnh danh là “Nữ hoàng nhạc Pop”

Một số bài hát nổi tiếng của Madonna như: Crazy for You, La Isla Bonita, Frozen, 4 Minutes; Girl Gone Wild… Trong sự nghiệp của mình, Madonna nhận được khá nhiều giải thưởng danh giá như: Giải thưởng Âm nhạc Mỹ, giải Âm nhạc châu Âu của MTV cho nữ ca sĩ xuất sắc nhất; giải Echo cho nữ Nữ nghệ sĩ Pop/Rock quốc tế xuất sắc nhất… Hiện nay, Madonna vẫn là một trong những tên tuổi được khán giả trên thế giới yêu thích.

5.3 Mariah Carey

Mariah Carey sinh ngày 27/3/1969, là ca sĩ – nhạc sĩ – nhà sản xuất và là diễn viên người Mỹ. Bà nổi danh với chất giọng du dương với khả năng sử dụng quãng sáo đặc trưng. Mariah Carey còn được người hâm mộ gọi là “Nữ hoàng nhạc Giáng sinh”.

Mariah Carey còn được người hâm mộ gọi là “Nữ hoàng nhạc Giáng sinh”
Mariah Carey còn được người hâm mộ gọi là “Nữ hoàng nhạc Giáng sinh”

Một số bài hát khá nổi tiếng của Mariah Carey được nhiều khán giả yêu thích như: It’s a Wrap, All I Want For Christmas Is You, Without You, Fantasy, We Belong Together. Trong sự nghiệp của mình, Mariah Carey cũng đã đạt được nhiều giải thưởng âm nhạc nổi tiếng như World Music Award – Pop Icon Award; Grammy cho Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất, Grammy cho trình diễn giọng Pop nữ xuất sắc nhất; Grammy cho bài hát R&B xuất sắc nhất…

5.4 Elton John

Elton John sinh ngày 25/3/1947, là ca sĩ – nhạc sĩ, nhạc công dương cầm và là nhà soạn nhạc người Anh. Elton John bán được hơn 300 triệu đĩa nhạc và trở thành một trong những nghệ sĩ bán đĩa chạy nhất thế giới trong suốt sự nghiệp của mình. Trong 31 năm liên tục từ 1970 – 2000, ông có ít nhất 1 bài lọt vào danh sách Billboard Hot 100.

Elton John bán được hơn 300 triệu đĩa nhạc trong sự nghiệp âm nhạc của ông
Elton John bán được hơn 300 triệu đĩa nhạc trong sự nghiệp âm nhạc của ông

Về giải thưởng thì Elton John nhận được 5 giải Grammy danh giá trong lĩnh vực âm nhạc, 5 giải Brit, 1 giải Oscar… Một số bài hát nổi tiếng của ông phải kể đến Rocket Man, I’m Still Standing, Don’t Go Breaking My Heart, Cold Heart… Nhiều ca khúc của ông nằm trong Top 40 của nhiều quốc gia khác nhau.

6. Tham khảo danh sách 40 ca khúc nhạc Pop hay nhất thế kỷ 21

Nếu chưa từng biết nhạc Pop là gì, bạn có thể thử tham khảo và nghe 40 ca khúc nhạc Pop hay nhất thế kỷ 21 dưới đây:

  • Single Ladies – Beyoncé
  • Umbrella – Rihanna ft Jay-Z
  • Shake it Off – Taylor Swift
  • Toxic – Britney Spears
  • Rolling in the Deep – Adele
  • Firework – Katy Perry
  • ReHab – Amy Winehouse
  • Blingding Lights – The Weeknd
  • Dancing on My Own – Robyn
  • Hey Ya! – Outkast
  • Hips Don’t Lie – Shakira kết hợp với Wyclef Jean
  • Sexy Back – Justin Timberlake
  • Call Me Maybe – Carly Rae Jepsen thể hiện
  • Poker Face – Lady Gara
  • Hollaback Girl – Gwen Stefani
  • Starships – Nicki Minaj
  • Royals – Lorde
  • Party in the U.S.A – Miley Cyrus thể hiện
  • Bad Guy – Billie Eilish
  • Good as Hell – Lizzo
  • Get Lucky – Daft Punk kết hợp với Pharrell
  • Dynameite – BTS
  • Adore You – Harry Styles
  • No Tears Left to Cry – Ariana Grande thể hiện
  • Drivers License – Olivia Rodrigo
  • Sorry – Justin Bieber
  • Titanium – David Guetta ft Sia
  • Happy – Pharrell Williams
  • Hotline Bling – Drake
  • Milkshake – Kelis
  • Despacito – Luis Fonsi & Daddy Yankee thể hiện
  • Bootylicious – Sestiny’s Child
  • Work It – Missy Elliott
  • Levitating – Dua Lipa
  • America Boy – Estelle featuring Gwen Stefani
  • Gangnam Styke – Psy
  • Crazy – Gnarls Bakley
Tạo hình của Taylor Swift trong MV Shake it Off
Tạo hình của Taylor Swift trong MV Shake it Off

Danh sách 40 bài hát này dựa theo bình chọn của Tạp chí Time Out, là một trong những tạp chí toàn cầu được xuất bản bởi Time Out Group.

Tác giả: Vân Anh 

(Nguồn: https://muaban.net/)

Lịch sử của văn hóa pop ở phương Tây

0
FILE - In this Feb. 9, 1964 file photo, The Beatles, from left, Paul McCartney, Ringo Starr on drums, George Harrison and John Lennon, perform for the CBS "Ed Sullivan Show" in New York, as they record a set that would later be shown on the Feb. 23 broadcast of the show. The Beatles made their first broadcast appearance on "The Ed Sullivan Show," America's must-see weekly variety show, later in the day, Sunday, Feb. 9, 1964, officially kicking off Beatlemania. (AP Photo/Dan Grossi, File)

Có nhiều nhân tố khách quan gắn văn hóa pop, thứ văn hóa ra đời trong những năm 60, với thực tiễn tiêu dùng và văn hóa đại chúng, hai đặc trưng hiện nay của các nước phát triển phương Tây.

Lịch sử của văn hóa pop ở phương Tây

Bài viết của tác giả Bertrand Lemonnier

Từ pop có lẽ là thành công lớn nhất trong thế giới anglo saxon những năm 60-70, chủ yếu để chỉ âm nhạc được thanh niên nghe (pop music). Tính giản dị đơn âm của pop không che đậy những hiện thực phức hợp hơn của những biến đổi của văn hóa đại chúng trong bối cảnh xã hội dồi dào. Đầu những năm 60, trên thực tế pop chỉ được dùng cho hai thể loại không có quan hệ rõ ràng với nhau: pop art, phong trào nghệ thuật tiên phong ra đời ở London và New York, và âm nhạc được những teenagers (tuổi tin) nghe. Từ ngữ pop art được gán cho nhà phê bình Anh Lawrence Alloway khoảng năm 1956-1958, nhưng từ pop đã xuất hiện trên vài bức tranh cắt dán: của người Italia – Scotland Eduardo Paolozzi (1), Tôi từng là đồ chơi của một người giàu (1947) và của người làm design Anh Richard Hamilton (2), Ai đã làm cho các nội thất khác nhau và hấp dẫn như vậy? (1956). Tranh cắt dán của R.Hamilton là kết quả một suy nghĩ trong một nhóm nhỏ thuộc Viện Nghệ thuật đương đại ở London, nhóm Độc lập (Independent Group). Tác phẩm này trình bày phần lớn các média của văn hóa đại chúng: điện ảnh, truyền hình, điện thoại, ghi âm, quảng cáo thương mại, truyện tranh, trang trí khoa học viễn tưởng, tạp chí. Nó cũng tập hợp vài mặt hàng tiêu dùng quy cách hóa, được quảng cáo những năm 50 ca ngợi: đồ bày biện trong nhà có tính chức năng (ghế ngồi, ghế dài, bàn thấp), máy hút bụi, ô tô. Từ pop xuất hiện gần như ở trung tâm của sự tiêu dùng, chỉ một mình nó tóm lược vừa về mỹ học vừa về nội dung một nghệ thuật được coi là tiêu biểu cho một xã hội hướng vào tiêu dùng đại chúng.

Ở R.Hamilton, giá trị chế riễu của việc rút gọn từ popular là điều hiển nhiên, nhưng điều đó cũng không có nghĩa là giới thượng lưu nghệ thuật khinh thường văn hóa bình dân. Trái hẳn lại, xã hội tiêu dùng, qua những huyền thoại mới, những hình ảnh mới, những phương tiện truyền thông của nó, trở thành một nguồn cảm hứng vô tận. Nghệ thuật không tìm cách làm cho nó phù hợp với những sở thích, hay trong trường hợp trừu tượng hóa, rời xa chúng, mà là tuân theo những chuẩn mực do các phương tiện truyền thông đại chúng và quảng cáo đặt ra. Do đó, nó có thể được coi là bình dân, vì việc hiểu nó cũng diễn ra ngay tức khắc như một thông điệp quảng cáo, một bài hát hay một tạp chí có số lượng phát hành lớn. Tuy nhiên cách hiểu pop art đặt ra một cách nhìn có khoảng cách, đem lại cho đồ vật hay hình ảnh một ý nghĩa mới và, ở một chừng mực nào đó, đem lại tự do cho các công dân trước những nhà buôn và những nhà quảng cáo. Pop art chỉ bình dân vì cái mà Umberto Eco gọi là một sự “tích hợp biện chứng”(3). Sự vận động biện chứng ấy có tính chất căn bản vì nó đem lại cho pop nội dung riễu cợt. U.Eco lấy tác phẩm của người Mỹ Roy Lichtenstein làm ví dụ. Tác phẩm này mang một sự vận động ba mặt, trong đó diễn ra sự hòa trộn về ngữ nghĩa giữa pop và popular: một vận động cảm hứng, các truyện tranh cho người lớn; một vận động sáng tạo, R.Lichtenstein vẽ một truyện tranh và sự phê bình liền tán thưởng vì sự đổi hướng nghệ thuật ấy; một vận động bắt chước R.Lichtenstein của các họa sĩ, các nhà design. Tranh truyện vì vậy đã nhận được sự vinh quang của tác phẩm nghệ thuật theo nghĩa hàn lâm của thuật ngữ này.

Cũng được dùng trong những năm 40 và 50 TK XX để chỉ những dạng khác nhau, từ pop được truyền bá rộng rãi vào cuối những năm 50 nhân sự xuất hiện của rock n’roll ở Mỹ. Từ pop music xuất hiện năm 1949 trong tạp chí âm nhạc Anh Melody Maker. Năm 1955, công ty EMI tung ra nhãn hiệu đĩa nhạc Pop HMV (His Master’s Voice) và năm 1958, nhà tiểu thuyết Colin Mc Innes viết Pop Songs and Teenagers (Những bài hát pop và tuổi teen). Thành công của nhóm Beatles năm 1963-1965 cuối cùng cũng đã phổ cập từ pop gắn liền với nhạc được tuổi trẻ nghe. Năm 1965, nhóm người Anh Who trở thành nhóm nhạc pop art đầu tiên, nhờ tung ra một lối ăn mặc phỏng theo những chủ đề của art pop. Pop music và pop art ảnh hưởng lẫn nhau, nhất là dưới sự thúc đẩy của Andy Warhol trong Factory ở New York của ông.

Văn hóa pop

Văn hóa pop lan truyền vào những năm 60, khi không chỉ còn là một thứ âm nhạc đa dạng, mà còn là một mỹ học, một ứng xử, một cách sống. Năm 1963, Rayner Banham, nhà phê bình và nhà sử học về nghệ thuật Anh, đã hiểu được chiều toàn cầu của pop, khi người ta chưa nói tới văn hóa theo nghĩa anglo saxon của way of life: “Ngày nay pop hiển nhiên đã nằm trong lối sống của chúng ta,… (đến mức nó) trở thành ngôn ngữ chung, âm nhạc, nghệ thuật thị giác (và, ngày càng rõ cả về văn học) qua đó những ai tham gia văn hóa đô thị và kỹ thuật của các nước phương Tây hóa có thể giao tiếp với nhau, theo lối trực tiếp hơn, sống động hơn, có ý nghĩa hơn”(4). Tháng 7-1966, Harold Wilson, Chủ tịch Công đảng, đọc một bài diễn văn ở Liverpool (ông cũng là dân biểu ở đó) nhân dịp mở lại câu lạc bộ trong đó nhóm Beatles khởi đầu sự nghiệp của nó. Ông nói lên từ ngữ pop culture và hôm sau báo chí nhắc lại một cách rộng rãi.

Sau đó, từ ngữ pop culture lan rộng trong ngôn từ và bao hàm bốn trường: một trường thương mại, như luận cứ quảng cáo bán hàng cho công chúng trẻ tuổi, nhất là của các công ty đa quốc gia về đĩa nhạc; một trường truyền thông, như một sự rút gọn theo kiểu báo chí, không cần tới nội dung riêng, có liên quan với tuổi trẻ, âm nhạc, trang phục; một trường nghệ thuật, qua những tác phẩm pop (hội họa, âm nhạc, thơ) và những phương tiện truyền thông ppp, các tiệm hàng pop, các buổi phát sóng pop; một trường xã hội học, như một thứ văn hóa nhỏ dành cho thiếu niên với những thói quen riêng. Đương nhiên định nghĩa về văn hóa pop cũng thay đổi theo mỗi trường nói trên, nhưng vào tháng 1-1957, nhà design R.Hamilton muốn đưa ra một lý thuyết. Theo ông, pop là “bình dân (được một cử tọa đại chúng hiểu), với thời hạn ngắn và dễ bị quên, rẻ, sản xuất hàng loạt, dành cho tuổi trẻ, mang tính chất tinh thần, giới tính, kỹ xảo, lôi cuốn, gắn với big business (kinh doanh lớn)”(5). Một ví dụ lấy từ sản xuất âm nhạc đầu những năm 60 TK XX cho phép kiểm tra cơ sở vững chắc của định nghĩa này. Năm 1963, nhóm Beatles thành công lớn lần đầu ở Anh với bài hát Please Please Me. Theo những tiêu chuẩn nói trên, bài hát này là bình dân (nó có một cử tọa đại chúng thật, nhờ phát thanh, truyền hình, đĩa), chóng tàn và bị quên nhanh (vài tuần lễ sau những hitprades trong đầu, nó liền bị một bài khác thay thế), rẻ (qua sự trợ giúp của máy quay đĩa 45 vòng), sản xuất hàng loạt (hàng triệu bản), nông cạn (lời không có chủ định, hòa âm đơn giản), được những ca sĩ trẻ, dí dỏm, gợi dục và hấp dẫn trình diễn (nhóm Beatles là tất cả những điều này vào đầu những năm 60 TK XX), và cuối cùng, gắn với kinh doanh (công ty đa quốc gia về đĩa EMI).

Pop không hiện ra ngay một lúc như một văn hóa. Trước tiên đó là một công nghiệp đáp ứng nhu cầu kinh tế, chủ yếu của những thiếu niên thuộc các giai cấp bình dân. Năm 1959, Mark Abrams, giám đốc London Press Exchange, xuất bản The Teenage Consumer, về sau còn có thêm The Teenage Consumer Spendings. Đối với M.Abrams, những người trẻ tuổi Anh chi tiêu 830 triệu livres sterlings mỗi năm về những sản phẩm giải trí, tức 10% số chi về tiêu dùng của dân cư và 5% số chi về quốc phòng. Những người chi như vậy chiếm 80% số thanh niên bước vào cuộc đời hoạt động, 20% còn lại là dưới 15 tuổi hoặc đang theo học, do đó chi bằng tiền túi bố mẹ cho. Trong số 5 triệu người 15-21 tuổi, 4 triệu đang đi làm. Thanh niên tìm được việc làm rất dễ khi ra trường, hoặc tập việc trong các công xưởng và các nhà máy, hoặc vào những nghề dịch vụ thường có thù lao cao hơn (cửa giao dịch của các ngân hàng, thư ký, thủ quỹ, bán hàng, chuyển hàng). Những thu thập này thật sự nuôi dưỡng cho một thị trường tuổi trẻ (youth market), trong đó giải trí chiếm một vị trí quan trọng. Thị trường này có vẻ đặc biệt bình dân hơn, do những thanh niên thuộc các working class hiếm khi được tiếp tục học lên. Nó cũng bị nam giới chiếm ưu thế, ít ra là cho tới giữa những năm 60 TK XX: các cô gái (nhất là từ 15 đến 17 tuổi) chịu một sự kiểm soát chặt chẽ hơn của bố mẹ và phần lớn bị loại trừ khỏi văn hóa đường phố (các trận đấu bóng đá, những sự lui tới các quán cà phê, khiêu vũ, những cuộc dạo chơi bằng xe scootes hay bằng mô tô…); các cô gái cũng đóng một vai trò gia đình và nội trợ rất quan trọng và, theo các cuộc điều tra xã hội học, họ tốn nhiều thời gian để trang sức, làm đầu tóc, chuẩn bị cho những cuộc đi ra ngoài. Văn hóa trẻ (youth culture) trước hết là một sự kiện xã hội – kinh tế. Đó là một thứ kinh tế được những phương tiện truyền thông lớn ủng hộ và là một công nghiệp sinh lợi trong những lĩnh vực ngày càng đa dạng. Một công nghiệp giải trí, phô phang, thỏa mãn một số nhu cầu của một lớp tuổi thích tiêu pha, cũng khao khát những khoái lạc và tự do mà ông bà và bố mẹ họ hiếm khi biết tới ở lứa tuổi ấy: khiêu vũ, ăn mặc khác đi, hóa trang, đi xem phim, đến các quán cà phê, đi xe scooter…

Giữa những năm 60 TK XX, văn hóa pop đạt được một thành công vượt quá tất cả những hy vọng của công nghiệp ghi đĩa. Nó trở thành một thành tố, nếu không phải là một máy gia tốc, của tiến bộ công nghệ, lại vừa là một văn hóa đa phương tiện, một công nghiệp đa quốc gia hùng mạnh và một lối sống trên quy mô thế giới.

Hai điểm đầu gắn liền nhau. Nhạc pop hoàn toàn phụ thuộc vào công nghệ: một mặt, với điện khí hóa nhạc cụ, các hệ thống tăng âm, các phòng ghi và các kỹ thuật sản xuất, việc chế tạo các đĩa; mặt khác, với các phương tiện truyền thông phát đi tiếng và hình bằng phát thanh, truyền hình và máy quay đĩa (những khổ mới 45 và 33 vòng, với âm thanh nổi). Nhóm Beatles, chẳng hạn, biết rất rõ rằng âm nhạc được ghi không chỉ là một média, mà còn là một hình thức sáng tạo mới. Sự hoàn thiện này không nhằm khôi phục trung thực âm thanh mà nhằm làm chủ nó qua những công nghệ mũi nhọn.

Những mâu thuẫn của một cuộc nổi dậy

Sự phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các phương tiện truyền thông hiện đại phục vụ cho sản phẩm pop cũng là một trong những biến đổi lớn của văn hóa đại chúng. Từ năm 1964, các nhóm pop đã là các nhóm đa phương tiện rồi: chúng xuất hiện trên báo chí, ở các rạp phim, trong các hiệu sách, trên đài phát thanh, trên đài truyền hình, trên các tờ quảng cáo và ở đâu cũng thích hợp cả. Thế hệ những người trẻ tuổi sinh ra sau khi cuộc chiến tranh vừa mới kết thúc, hay trước đó một ít, là thế hệ đầu tiên sử dụng một cách gần như tự nhiên (ngay cả khi nó không kiểm soát được, trừ vài ngoại lệ hiếm hoi) những công cụ truyền thông hiện đại. Thật nghịch lý, văn hóa pop, trong những thái độ, những văn bản của nó, lại sẵn sàng từ bỏ công nghệ và các phương tiện truyền thông, nhất là sau 1966. Tuy nhiên, sự đan chéo trong những hệ thống kỹ thuật diễn ra trong thế giới phương Tây tư bản chủ nghĩa không đem lại cho nó một sự lựa chọn nào khác ngoài sự hợp tác hay sự đoạn tuyệt. Các nhóm hippies ở Californie, với những ý tưởng của nó lan truyền ở Anh những năm 1967-1968, đã lựa chọn sự đoạn tuyệt: họ vừa là những đứa con của xã hội kỹ thuật, vừa là những kẻ đối lập triệt để nhất đối với nó. Tuy nhiên, sự phê phán kỹ thuật không có hiệu lực trong lĩnh vực âm nhạc: năng lượng cơ sở của rock. Điện được sử dụng theo cấp số mũ, kể cả ở các nhóm cấp tiến nhất. Những cuộc hòa nhạc siêu khuếch đại (hàng triệu watt từ những năm 1968-1970 trong các cuộc liên hoan pop như ở Wooostock hay ở đảo Wight) và những trò chơi ánh sáng đã góp phần vào sự vận hành của những trung tâm nhiệt điện (gây ô nhiễm) và hạt nhân (bị tất cả các nhóm hippies bêu riếu) nhưng điều đó không thật sự làm cho người ta cảm thấy bị sốc. Không có rock nếu không có điện, chiều kích kinh tế và công nghệ ấy đôi khi bị coi nhẹ.

Từ các tiếp cận mâu thuẫn ấy nảy sinh ra kiệt tác pop của thập kỷ, Sgt Pepper’s lonely Hearts Club Band của nhóm Beatles (đĩa nhạc này ra mắt vào tháng 6-1967), vừa là sản phẩm công nghệ, vừa là sản phẩm phản văn hóa. Thể loại này đạt tới đỉnh cao mỹ học của nó. Có xu hướng chống trí thức ngay từ đầu, thoát thai từ thân thể hơn là từ tinh thần, pop đã thay đổi bản chất trong khoảng mươi năm. Những nhạc sĩ tự học trẻ ở Liverpool được thừa nhận nhiều danh tiếng: chẳng phải người ta đã so sánh họ với Mozarr và Malher từ 1963 đó sao? Chiếc túi nhỏ của Sgt Pepper tiêu biểu cho một văn hóa pop đang phá vỡ những vật chướng ngại giữa văn hóa đại chúng và văn hóa thượng lưu: tấm ảnh này tập hợp 87 yếu tố và nhân vật thuộc hai thứ văn hóa vẫn còn bị chia cắt cho đến lúc đó, và design này được giao cho một nghệ sĩ Anh nổi tiếng, Peter Blake, thực hiện.

Một hiện tượng thế giới

Thế giới hóa pop là một hiện tượng đại chúng vượt xa khuôn khổ hòn đảo Vương quốc Anh. Hàng triệu người trẻ tuổi có những quy chiếu chung, vượt khỏi những biên giới và một nền văn hóa dân tộc được học ở nhà trường. Đây không phải chỉ là một sự hóa thân của việc tiếp thị, dù các nhóm pop đã hưởng lợi từ toàn bộ cấu trúc hạ tầng của các công ty lớn như EMI, đó là các công ty vừa sản xuất đĩa, máy hát điện và có cả một mạng lưới phát hành đa quốc gia. Sự kiện ấy phải được đánh giá theo toàn bộ chiều kích lịch sử và địa lý của nó như một biến đổi trên quy mô hành tinh của văn hóa đại chúng. Thanh niên Pháp, Anh, Đức bắt đầu gặp nhau trong những năm 60 TK XX qua các chuyến đi tìm hiểu ngôn ngữ, qua thư từ, qua những cặp đôi, không phải để tìm những điểm chung giữa Shakespear, Moliere và Goethe: các cuộc trò chuyện đương nhiên có thể là về đĩa nhạc mới nhất của nhóm Beatles và tất cả những gì kèm theo đó (các cây ghi ta, các bài hát, những xúc cảm, những lời tán tỉnh và thường là việc hút thuốc). Qua các đĩa nhạc, truyền hình, phát thanh, điện ảnh, báo chí, các cuộc hòa nhạc và thế giới hóa những giao tiếp, những trao đổi, nhóm Beatles và nhóm Rolling Stones không chỉ trở thành những ngôi sao trong thế giới phương Tây phát triển mà còn ở cả thế giới thứ ba (nhóm Beatles biểu diễn ở Manila, nổi tiếng toàn châu Á và châu Mỹ latin, phát đi trên đài phát thanh chính thức của Cuba,…) và ở các nước cộng sản châu Âu, nơi ảnh hưởng của nó vượt khỏi bức màn sắt. Bằng sự lan truyền của nó ở nhiều nước, văn hóa pop, qua những ngôi sao và những thần tượng của nó, đã khởi xướng một lối sống trong đó thanh niên phương Tây có thể tìm thấy chính mình. Lối sống của nhóm Beatles và các ngôi sao khác cho phép xác định một ứng xử pop: sống gấp, có thêm nhiều kinh nghiệm ngoài những giới hạn được chấp nhận (nhất là bằng việc dùng ma túy), luôn luôn hợp mốt và đứng hàng đầu trên sân khấu, luôn luôn sáng tạo và đưa ra ý kiến của mình mà không coi đó là quá nghiêm túc, theo một thứ tiếng lóng hay đúng hơn, một thứ ngôn ngữ pop. Từ khi xuất hiện diễn viên Mỹ James Dean, văn hóa pop đã chọn lựa các nhân vật của nó: những người thiêu cháy tuổi trẻ của mình đến mức có thể mất nó còn hơn là sống già nua tầm thường. “Tôi thích chết hơn là bị già nua”, nhóm Who hát năm 1965. Tuy vậy, cuộc nổi dậy ngay từ đầu của rock chỉ kéo dài khoảng mươi lăm năm mà thôi (1955-1970). Các nhạc công đã móc nối với hệ thống mua bán. Từ những năm 70 TK XX, rock trở thành một công nghiệp văn hóa phồn thịnh trong thế giới anglo saxon, đẻ ra những món lãi thương mại khổng lồ và đụng tới những công chúng ngày càng rộng lớn.

Sự phát triển của văn hóa pop ở Anh thúc đẩy của những biến đổi gia tốc của văn hóa đại chúng hiện đại. Qua những thế hệ trẻ tuổi có được những sự giải trí và một sự tiêu dùng độc lập, những hiện tượng đại chúng hóa và truyền thông hóa (đã phát triển trong những năm 20 và 30 TK XX) càng trở nên mạnh mẽ hơn và đụng tới toàn bộ dân cư. Thế giới hóa trở thành thật sự, qua tiếng Anh và nền nhạc pop hay rock (6). Không chìm sâu trong các khu biệt lập (ghetto) bình dân, nơi mà một số người muốn làm như thế, văn hóa đại chúng pop gặp được văn hóa thượng lưu và, vì thế, đã phá vỡ các sơ đồ văn hóa cũ. Lúc đầu là một hàng hóa phù du, nhạc pop thấm đẫm không khí phản văn hóa vào cuối những năm 60 TK XX và nội dung của nó tiến gần với những tiêu chuẩn nghệ thuật của văn hóa cao. Nó không vì thế mà mất đi giá trị mua bán trong bối cảnh tư bản chủ nghĩa là bối cảnh cho phép nó ra đời và phồn vinh cho đến ngày nay. Nhóm Beatles, những nhân vật của thập kỷ 60 TK XX và của cả một thế hệ, chỉ một mình nó đã là hiện thân của tất cả những biến đổi ấy. Do đó, nó xứng đáng có một vị trí nổi bật trong lịch sử kinh tế, xã hội và văn hóa của ba mươi năm vinh quang.

—————————————————-

Chú thích:

1, 2. Tate Gallery, London.
3. Một cuộc trò chuyện với Umberto Eco trong Phong trào popGrammont, 1975.
4. R.Banham, The Atavism of the Short Distance Mini Cyclist (1963), trích theo J.Savage, H.Kureishi, The FFaber Book of Pop, Faber and Faber, 1995.
5. Thư gửi P. và A.Smith (tháng 1-1957). Nguồn: triển lãm Postwar Britain and the Aesthetics of Plenty, ICA, London, tháng 2 – tháng 4-1990.
6. Giới thiệu những văn bản của cuộc hội thảo Nghệ thuật ở tại chỗ, sđd.
7. V.Milliot Belmadni, Khi nghệ thuật tìm kiếm không gian công chúng trong Nghệ thuật đương đại, các trường nghệ thuật, các tiêu chuẩn, sự đón tiếp, sđd.

Tác giả: Công Thủy

Theo TẠP CHÍ VĂN HÓA NGHỆ THUẬT

Những chinh phụ thời đại Hồ Chí Minh

0

Năm 1527 Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê. Cuộc chính biến này không được lòng dân bởi toàn dân Việt thời bấy giờ còn đang hướng cả về vua Lê Thái Tổ – người có công tích 10 năm nằm gai nếm mật kháng chiến thắng lợi chống quân Minh.

Từ đó gây ra họa Nam Bắc triều: nhà Mạc đóng đô ở Thăng Long (Bắc Triều), lịch sử và nhân dân gọi triều đại nhà Mạc là Ngụy Triều:

: NGỤY là giả dối, cướp ngôi). Nhà Lê Trung Hưng đóng bản doanh tại Thanh Hóa (Nam Triều). Hai triều đại tiến hành chiến tranh 65 năm đến khi chúa Trịnh Tùng tiêu diệt xong nhà Mạc mới chấm dứt, ngoài ra còn những cuộc nổi dậy của nông dân các nơi. Lớp lớp các chinh phu (lính nam giới) phải ra trận để lại người chinh phụ ở hậu phương với bao khó khăn về vật chất và tinh thần: vừa cày cấy sản xuất vừa phụng dưỡng bố mẹ chồng, vừa nuôi dạy con cái. Phải cố gắng lao động trong hoàn cảnh một mình đơn độc cùng với đời sống tinh thần luôn trong sự nhớ nhung, cô đơn, tủi hờn xót xa, thương nhớ chồng ngoài mặt trận mà người chinh phụ phải chịu đựng.

Thông cảm và chia sẻ với hoàn cảnh của người chinh phụ, ông Đặng Trần Côn – cử nhân Nho học, Tri huyện Thanh Oai (Sơn Nam Thượng, sau này thuộc Hà Đông) đã sáng tác tập thơ Chinh phụ ngâm khúc bằng chữ Nho, Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đã dịch Nôm xuất sắc nhất tác phẩm này:

Thuở trời đất nổi cơn gió bụi

Khách má hồng nhiều nỗi truân chiên.

Đây là một tác phẩm tiêu biểu rất có giá trị  trong văn học sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ 18, được đánh giá cao về tính nhân ái, nhân đạo, nhân văn đối với hoàn cảnh cực khổ cả vật chất và tinh thần của người vợ lính, qua đó toát lên khát vọng hòa bình, chống chiến tranh của nhân dân. Để tránh rắc rối, ông Đặng Trần Côn phải mô tả hoàn cảnh chiến tranh với những địa danh, điển cố của Tàu từ nhà Tần đến nhà Hán đồng thời chỉ đề cập đến một phần hoàn cảnh, nỗi niềm của người chinh phụ.

CHINH : là đi, chinh chiến, chinh phạt, chinh phục 

PHU     : là chồng, người con trai đã trưởng thành, đã có vợ

PHỤ     : là vợ, người con gái đã trưởng thành, đã có chồng

Thời xưa vì trọng nam khinh nữ, không có nữ binh nên chỉ gọi chủ thể luôn là người chinh phu còn vai trò chinh phụ là người vợ, là thứ yếu chỉ có nhiệm vụ hậu phương và gia đình.

Nhưng trước đó nghìn năm hai bà Trưng hơn 20 tuổi đã khởi nghĩa chống quân Đông Hán (thời Hán Vũ Đế) và bà Triệu 19 tuổi đã khởi nghĩa chống quân Đông Ngô (thời Tam quốc) bên Tàu là hai điển hình tiêu biểu của những người chinh phụ – những người phụ nữ trực tiếp tham gia chinh chiến. Công tích của các bà lưu truyền đến tận ngày nay, được nhân dân thành kính, ngưỡng mộ và thờ phụng.

Đặc biệt đến thời đại Hồ Chí Minh,sau lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ Tịch đêm 19/12/1946:

Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!

Bất kỳ đàn ông, đàn bà

Bất kỳ người già, người trẻ

Không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc.

Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc.

Từ đó, hai từ “chinh phụ” phải được định nghĩa thêm là những người phụ nữ trực tiếp cầm vũ khí tham gia chinh chiến như các chinh phu.

Có những chinh phụ lỗi lạc chỉ huy đơn vị trực tiếp chiến đấu như bà Hoàng Ngân, bà Nguyễn Thị Định, những anh hùng nữ liệt sĩ – những chinh phụ mọi lứa tuổi, bằng đức tính kiên nhẫn, trung hậu đảm đang, với lòng yêu nước nồng nàn và truyền thống quật cường của dân tộc cùng sự gan dạ, dũng cảm và chí căm thù giặc ngoại xâm. Người chinh phụ Việt Nam đã hy sinh vô cùng to lớn: nhiều đơn vị tập thể nữ thanh niên xung phong, nữ dân quân hy sinh dưới bom đạn như sự kiện ở Hang Tám cô, Truông Bồn, 10 cô gái dân quân Lam Hạ (Phủ Lý), 10 cô gái thanh niên xung phong Đồng Lộc (Hà Tĩnh)… Những sự tích đó đã được đưa lên thành tác phẩm văn học nghệ thuật, có khoảng mấy chục ca khúc của các nhạc sĩ mọi lứa tuổi thể hiện rất hay.

Nhạc sĩ Hà Nội Sĩ Thắng công tác tại tỉnh Hà Nam là nhân chứng gần trong sự kiện 10 cô gái trên trận địa pháo Lam Hạ hy sinh, anh đã viết  tác phẩm Chim trắng thiêng vô cùng thành kính và xúc động:

Ngoài ra những hy sinh của từng cá nhân nữ anh hùng liệt sĩ thì nhiều và đã viết trong những bài trước.

Trong cuộc sống riêng tư các chinh phụ thời kháng chiến cũng chịu nhiều hy sinh to lớn: thời kháng chiến chống Pháp có nhiều chị tham gia phong trào xếp bút nghiên lên đường tranh đấu, đến khi kháng chiến thành công, tuổi đã quá lứa lỡ thì, sự thiệt thòi này được nhạc sĩ tiền bối Lê Yên thể hiện trong ca khúc Bói Kiều vô cùng xúc động. Ở miền Trung có những bà mẹ Việt Nam anh hùng cả chồng và năm, bảy người con trai đều hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ. Có những đơn vị thanh niên xung phong sau khi kết thúc chiến tranh đã được nhà nước bố trí xây nhà tình nghĩa cho các chị vào một khu tập thể, nhân dân vẫn gọi là xóm không chồng, bến không chồng… Nhiều anh bộ đội được nghỉ phép hai ngày về lấy vợ, xong lên đường ra mặt trận ngay rồi đi mãi không về. Nhà thơ Võ Thị Hồng Tơ có bài thơ Bến chị tôi vô cùng xúc động và thương xót cho hoàn cảnh người chinh phụ:

 BẾN CHỊ TÔI

Ngày chị về bên sông theo anh

Lối nhỏ bờ đê nghiêng nghiêng hoa cỏ

Đò quay mũi hướng về nơi bến đỗ

Em thẫn thờ nhìn con sóng lao xao.

 

Em quay về với man mác hương cau

Đêm vắng chị, trăng vàng ngơ ngác quá

Gió len lỏi bên chân rào khóm rạ

Hoa bưởi thơm, nhớ mùi tóc chị hong.

Ngày theo chồng, chị đội nón sang sông

Cặp mắt ướt ngắm bờ xa vời vợi

Con én nhỏ bay ngang chiều lạc lối

Mây bơ vơ phiêu lãng cuối chân trời.

Ngày chị sang sông mưa trắng bãi bồi

Đò chở nặng xôn xao người đưa tiễn

Bờ bên ấy, chị nhỏ dần trên bến

Nhớ mênh mông theo con nước lên ròng

Phận cô đơn, chị chẳng được cùng chồng

Ngày thắng trận anh không về lại nữa

Bỏ mình chị nơi quê người bỡ ngỡ

Bến đò xưa, dáng chị trắng mưa chiều./.

Nhạc sĩ Hà Nội Quang Hiển là cựu chiến binh đã từng là nhân chứng của các hoàn cảnh của đồng đội. Cảm khái trước bài thơ anh đã sáng tác ca khúc Bến chị tôi vô cùng lay động lòng người:

Không thể kể xiết những hy sinh to lớn của các bà các chị.

Nhà nước đã xây dựng những khu tưởng niệm các sự kiện lịch sử oanh liệt, trong đó đều có đền thờ các bà, các chị – những người chinh phụ đích thực của thời đại Hồ Chí Minh.

Nhân ngày Thương binh liệt sĩ, là người Việt Nam không ai quên được toàn thể hàng triệu liệt sĩ đã bỏ mình vì nước, trong đó những công lao và sự hy sinh vô cùng to lớn của các nữ liệt sĩ – những người chinh phụ đích thực đáng để chúng ta và hậu thế biết ơn, ngưỡng mộ và sùng kính ./.

Tác giả: Phan Đông Viên

(Nguồn: https://hoinhacsi.vn/)

Kỹ thuật biểu diễn ca khúc nhạc nhẹ

0

Ca khúc nhạc nhẹ từ khi ra đời đến nay đã trở nên quen thuộc trong đời sống âm nhạc thế giới cũng như tại Việt Nam, đặc biệt hấp dẫn với lớp trẻ. Để thể hiện tốt một ca khúc nhạc nhẹ với lối trình diễn chuyên nghiệp, yêu cầu người hát phải hiểu và nắm rõ kỹ thuật biểu diễn. Với sự sáng tạo trong biểu diễn của người hát, bài hát trở nên sinh động hơn. Việc luyện tập các điệu nhảy, xử lý kỹ thuật thể hiện trên sân khấu của ca sĩ biểu diễn ca khúc nhạc nhẹ cần được nghiên cứu và thực hiện một cách nghiêm túc.

 

Cách biểu diễn dân ca thường theo đặc điểm của từng vùng miền, kết hợp dân vũ của các dân tộc vùng miền đó, chẳng hạn biểu diễn bài dân ca Xòe hoa của dân tộc Thái thường kết hợp với múa xòe – Ảnh: tuoitrethudo.vn

1. Khái niệm nhạc nhẹ, nhạc rock, nhạc pop, kỹ thuật biểu diễn

Nhạc nhẹ

Nhạc nhẹ được hiểu ở hai dạng, nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Ở nghĩa rộng, nhạc nhẹ là tất cả những thể loại âm nhạc có hình thức nhỏ, mang tính giải trí, nhẹ nhàng, dễ hiểu như các tiểu phẩm nhạc đàn, ca khúc… có thể gọi là nhạc nhẹ truyền thống. Với ý nghĩa này, nhạc nhẹ được dùng để đối sánh với các thể loại âm nhạc có hình thức lớn như sonate, giao hưởng, concerto, opera…

Ở nghĩa hẹp, nhạc nhẹ được hiểu là nhạc nhẹ hiện đại, tiêu biểu là jazz, rock, pop (phổ biến ở TK XX), là những thể loại có nhiều đặc điểm khác với nhạc nhẹ truyền thống (nhạc nhẹ ở nghĩa rộng) như tính nhảy múa, tính giải trí… Như vậy, nhạc nhẹ (hiện đại) là loại nhạc mang tính giải trí cao, chú trọng đến tiết tấu mang tính chu kỳ, gắn với nhạc nhảy; về ngôn ngữ âm nhạc, cách hát và biểu diễn có nhiều đặc điểm khác với ca khúc cổ điển thính phòng và dân ca. Bài viết này sử dụng khái niệm nhạc nhẹ theo nghĩa hẹp. Từ đây, để ngắn gọn, tác giả bài viết sử dụng thuật ngữ nhạc nhẹ để chỉ nhạc nhẹ hiện đại và chỉ đề cập tới 2 thể loại là nhạc pop và nhạc rock mà không bàn đến nhạc jazz.

Nhạc rock

Rock là một thể loại của nhạc nhẹ còn được gọi là âm nhạc quần chúng – popular. Chữ rock được gọi tắt từ tập hợp từ rock and roll, là câu hát được lặp đi lặp lại trong các bài hát rhythm and blues của người da đen. Bài viết Nguồn gốc của rock trong cuốn Jazz – Rock – Pop, tác giả V. Konen đã nhận định nhạc rock “được sáng tác do các nhạc sĩ da trắng dựa trên cách tư duy da đen” (1), hay nói cách khác, nhạc rock là sản phẩm kết hợp của nhạc da trắng và nhạc da đen.

Rock có đặc trưng sử dụng dàn âm thanh điện tử (thành tựu kỹ thuật của TK XX) với nhạc cụ đệm là 3 ghi ta điện và dàn trống. Vì thế, hiệu quả âm thanh của nhạc rock tạo ra có thể khuếch đại với âm lượng cực lớn, khác hẳn với dàn nhạc có âm thanh thật. Điều này làm cho rock có sức hút mạnh mẽ với tầng lớp thanh niên vốn ưa sự sôi động, cuồng nhiệt. Rock thường được biểu diễn với một nhóm ca sĩ và nhạc công gọi là ban nhạc, không theo kiểu dàn nhạc lớn như nhạc cổ điển hay dàn ca sĩ đông người. Thể loại rhythm and blues của nhạc jazz đã mang vào rock đặc điểm tiết tấu có nhiều đảo – nghịch, phách không cân (nhấn lệch), “cách hát khàn thô, ngân nga lạ lùng… hoàn toàn không xuất phát từ lối hát bel canto” (2) khiến cho rock có sự mới mẻ so với các thể loại ca khúc truyền thống trước đây. Rock được chia thành nhiều thể loại khác nhau: hard-rock (rock nặng), sympho-rock (rock giao hưởng), folk-rock (rock dân ca), soul-rock (rock nhẹ, tình cảm)…

Từ những phân tích ở trên, có thể hiểu: nhạc rock là một thể loại của nhạc nhẹ, bắt nguồn từ thể loại rhythm and blues của nhạc jazz, sử dụng âm thanh điện tử với âm lượng cực lớn, dàn nhạc chủ yếu là 3 ghi ta điện và dàn trống, tiết tấu của rock thường hay nhấn lệch, cách hát khác với thanh nhạc cổ điển, rock được biểu diễn theo ban nhạc, nhóm nhạc.

Nhạc pop

Pop là cách gọi tắt của chữ popular (bình dân, quần chúng). Nhạc pop về thực chất là nhạc rock. Trong bài Nhạc Pop là gì, tác giả Vũ Tự Lân viết: “gọi là nhạc Pop thì thực chất cũng là nhạc Rock với mọi hình mọi vẻ của nó” (3). Nhạc rock được nhiều thanh niên ưa chuộng, nhiều show diễn (trình diễn nghệ thuật ngoài trời) của các ban nhạc nổi tiếng có tới vài ngàn người xem. Đặc biệt, sự hâm mộ của lớp trẻ dành cho rock hết sức cuồng nhiệt. Vì vậy, trong xã hội xuất hiện cụm từ popular music để chỉ nhạc rock với hàm ý là loại nhạc bình dân có tính quần chúng cao. Qua quá trình phát triển, rock và pop được hiểu không đồng nhất với nhau, thuật ngữ rock thường để chỉ những bài có tính chất mạnh mẽ, cường độ cực lớn, thuộc loại rock nặng (hard-rock) mà chỉ có một số ít người ưa thích; còn pop là những bài có tính chất nhẹ nhàng, sôi động nhưng không quá mạnh, nhiều đối tượng thưởng thức được, mang tính giải trí cao.

Như vậy, nhạc pop thực chất là nhạc rock, tuy nhiên, qua quá trình phát triển, thuật ngữ nhạc pop để chỉ loại rock nhẹ, có các đặc điểm của nhạc rock nhưng tính chất nhẹ nhàng.

Kỹ thuật biểu diễn

Kỹ thuật biểu diễn trên sân khấu của ca sĩ phải phù hợp với từng dòng nhạc khác nhau. Cách biểu diễn của ca khúc cổ điển thính phòng thường trang nghiêm, lịch sự, tao nhã, duyên dáng. Cách biểu diễn dân ca thường theo đặc điểm của từng vùng miền, kết hợp dân vũ của các dân tộc vùng miền đó, chẳng hạn biểu diễn bài dân ca Xòe hoa của dân tộc Thái thường kết hợp với múa xòe. Cách biểu diễn nhạc nhẹ theo đặc điểm của âm nhạc và thẩm mỹ thưởng thức nhạc nhẹ là thường gắn với nhạc nhảy.

Như vậy, có thể hiểu kỹ thuật biểu diễn là sự kết hợp hài hòa giữa âm nhạc và hình thể, kỹ thuật diễn viên như: sự biểu cảm của ánh mắt, khuôn mặt, động tác tay, bước đi, xử lý micro, sử dụng đạo cụ… để tạo nên tổng thể tác phẩm âm nhạc được trình diễn trên sân khấu, với tư thế và diễn xuất mang tính nghệ thuật.

2. Vai trò của kỹ thuật biểu diễn trên sân khấu

Kỹ thuật biểu diễn đóng vai trò quan trọng cho sự thành công trong trình bày tác phẩm. Kỹ thuật biểu diễn có thể tạo sự lôi cuốn và sinh động, tăng thêm vẻ đẹp cho giọng hát nếu ca sĩ biểu diễn tốt và cũng có thể làm giảm chất lượng của tiết mục nếu kỹ thuật biểu diễn chưa phù hợp. Biểu diễn ca nhạc nhẹ với những động tác sôi động, luôn kết hợp với nhảy, múa thì kỹ thuật biểu diễn lại càng được coi trọng.

Trong thưởng thức nghệ thuật âm nhạc, người xem không chỉ “nghe” để cảm nhận vẻ đẹp của giọng hát mà còn “nhìn” để thấy sự hấp dẫn từ cách trình diễn của ca sĩ. Đời sống hiện đại, phần thưởng thức bằng mắt (nhìn) hiện nay có phần vượt trội, đôi khi còn lấn át phần nghe mà sự thành công của các nhóm nhạc Hàn Quốc (K-pop) là những dẫn chứng sống động. Nếu xét về phần hát, có lẽ một số người cho rằng: nhiều nhóm nhạc K-pop được hâm mộ có giọng hát khá bình thường nhưng vì sao họ được giới trẻ ưa chuộng? Hiện tượng nhóm nhạc Black Pink với sự hâm mộ cuồng nhiệt của giới trẻ Việt Nam phần nào cho ta đáp án của câu hỏi này. Được biết, có người bỏ ra đến 7 triệu đồng để mua 1 vé cho 1 đêm diễn tại sân vận động Mỹ Đình, Hà Nội. Giọng hát của các thành viên trong nhóm nhạc này không quá xuất sắc nhưng họ có phong cách biểu diễn rất hấp dẫn, điêu luyện, sôi động; họ chú ý đến các động tác hình thể, phong cách ăn mặc đẹp. Sự thành công đó có sự góp phần rất nhiều của kỹ thuật biểu diễn.

Biểu diễn nhạc nhẹ còn đặc biệt chú ý đến cách dàn dựng sân khấu, trở thành một nét đặc trưng trong phong cách biểu diễn và sử dụng nhiều yếu tố phụ trợ ngoài ca hát như: đạo cụ, đèn màu, hình ảnh minh họa 3D… Trong biểu diễn ca khúc thính phòng cổ điển, các đạo cụ cũng được sử dụng nhưng không đa dạng và phóng khoáng như biểu diễn nhạc nhẹ, các ca sĩ nhạc nhẹ có khi đeo cả mặt nạ lên sân khấu, sử dụng những đạo cụ cũng rất lạ mắt như cách biểu diễn của nữ ca sĩ người Mỹ Madonna là một ví dụ.

3. Rèn luyện một số kỹ thuật biểu diễn ca khúc nhạc nhẹ

Để biểu diễn tốt ca khúc theo phong cách nhạc nhẹ, ca sĩ, người học thanh nhạc cần rèn luyện một số kỹ thuật biểu diễn như sau:

Luyện tập các điệu nhảy

Ca khúc nhạc nhẹ thường có tiết tấu gắn với các điệu nhảy như: disco, chachacha, rumba, slow-rock, slow sulf, tango, valse, boston, bossa nova, pasodoble… Do vậy, việc luyện tập để nhảy tốt các điệu nhạc trên sẽ giúp ca sĩ, người biểu diễn áp dụng vào vận động khi hát những bài hát có các tiết tấu đó. Khi thuần thục các điệu nhảy, ca sĩ sẽ ứng dụng vào bài hát một cách tự nhiên nhất. Cần luyện tập trước gương để vừa hát vừa kết hợp các động tác hình thể được nhuần nhuyễn, tinh tế. Một đặc điểm đáng chú ý là trong biểu diễn nhạc nhẹ, kể cả đơn ca cũng thường có dàn vũ công nhảy phụ họa cùng ca sĩ hát, ca sĩ cũng có những động tác nhảy rất đều với dàn vũ công, để đạt được như vậy, chắc chắn phải luyện tập chăm chỉ.

Các điệu nhảy chachacha, rumba, tango, valse, boston, bossa nova đã được định hình từ lâu và có kỹ thuật khá cơ bản với khá nhiều chi tiết tinh tế. Việc học nhảy các điệu đó cần được luyện tập thường xuyên. Nếu ca sĩ không thuần thục các điệu nhảy này sẽ không thể áp dụng vào biểu diễn các bài hát nhạc nhẹ. Chẳng hạn như các bài: Ngõ vắng xôn xao – Trần Quang Huy, Xuân họp mặt – Văn Phụng, Yêu em dài lâu – Đức Huy, Lời thầy cô – Phạm Hải Đăng có thể kết hợp nhảy điệu chachacha; các bài: Vào hạ – Lê Hựu Hà, Để nhớ một thời ta đã yêu – Thái Thịnh, Một ngày mới – Huy Tuấn kết hợp với điệu nhảy rumba hoặc hát các bài Tình thôi xót xa – Bảo Chấn, Kỷ niệm thân thương – Minh Phương, Hờn dỗi – Nguyễn Đức Cường ca sĩ có thể sử dụng những bước nhảy của điệu tango…

Riêng điệu disco khá mới mẻ, thịnh hành vào nửa cuối TK XX mà các ban nhạc như Boney M hay Modern Talking rất ưa chuộng. Các ban nhạc này có nhiều bài sử dụng điệu nhảy disco. Đặc điểm của disco là sôi động, nhảy nhanh và cuồng nhiệt, khá tốn sức, song động tác không khó, không đòi hỏi sự tinh tế như các điệu valse, chachacha hay tango…, tuy vậy, để mang tính hiện đại và đẹp mắt thì lại không dễ. Vì thế, khi học nhảy và biểu diễn kết hợp các điệu này, cần chú ý tính hiện đại, làm sao để các động tác được diễn ra một cách tự nhiên, thoải mái nhưng vẫn có độ dẻo, linh hoạt, sôi nổi, nhẹ nhàng, đẹp mắt. Các bài hát có thể áp dụng điệu nhảy disco như Mưa ngâu – Thanh Tùng, Hoa cỏ mùa xuân – Bảo Chấn, Câu chuyện nhỏ của tôi – Thanh Tùng, Ơi cuộc sống mến thương – Nguyễn Ngọc Thiện, Cây đàn sinh viên – Quốc An…

Ngoài luyện tập những điệu nhảy thông dụng, muốn biểu diễn nhạc nhẹ hấp dẫn, người hát cần luôn tìm tòi, sáng tạo những động tác nhảy độc đáo khác. Ca sĩ Michael Jackson hay các ban nhạc Hàn Quốc thành công chính bởi đã rất sáng tạo trong những động tác nhảy lạ mắt kết hợp với hát. Đôi khi, nhảy trong nhạc nhẹ chỉ là những động tác đơn giản, không cầu kỳ hay mang tính hình tượng như nghệ thuật múa nhưng sự các động tác tạo được ấn tượng cho người xem và cả dàn biểu diễn nhảy đồng đều. Cách nhảy của ca sĩ Michael Jackson với những động tác chân xoay và lướt kết hợp độ dẻo của hình thể và độ lắc của cổ rất đặc biệt khiến ít người có thể học tập được, nhưng những động tác độc đáo của các ban nhạc Hàn Quốc lại không quá phức tạp và có thể học tập được. Hiện nay, nhiều ca sĩ và nhóm nhạc của nước ta cũng học tập cách nhảy tập thể trong biểu diễn nhạc nhẹ K-pop dances như các động tác tay đưa sát thân, vai hơi co lại trong khi người và hông lắc dẻo cả chiều ngang và chiều dọc mà điển hình là nhóm nhạc nữ Hàn Quốc có tên Up & Down rất nổi bật với cách nhảy này.

Tuy vậy, học tập của nước ngoài là để mở rộng kiến thức, tiếp thu cái hay cái đẹp, nhưng ca sĩ Việt Nam phải tự sáng tạo động tác nhảy của riêng mình, mang đặc trưng riêng, nhất là biểu diễn theo nhóm. Các nhóm nhạc như Tam ca 3A, Bức Tường, Mây Trắng… cũng đã tạo được nét riêng. Những năm gần đây, ngoài các ca sĩ như Mỹ Tâm, Đàm Vĩnh Hưng, nhiều ca sĩ đã đầu tư cho việc dàn dựng các động tác nhảy rất công phu, thành những tiết mục biểu diễn hấp dẫn như của ca sĩ Hồ Quỳnh Hương, Văn Mai Hương… Chương trình Bước nhảy hoàn vũ có nhiều ca sĩ tham gia là một minh chứng cho việc quan tâm đến nhảy trong biểu diễn của ca sĩ Việt Nam.

Luyện tập động tác của tay và ánh mắt

Động tác (hay còn gọi tư thế hát) sao cho đẹp là một trong những yếu tố quan trọng luôn được đề cập tới trong biểu diễn. Đối với hát nhạc nhẹ, người ca sĩ phải tạo được phong thái hết sức tự tin qua các động tác của hình thể từ dáng đứng, bước đi cho tới động tác của tay, ánh mắt. Ánh mắt của diễn viên luôn được nhìn thẳng vào khoảng không, nét mặt luôn thoải mái và tươi tắn, tạo thiện cảm với khán giả.

Tùy theo đặc điểm tính chất của bài hát là trữ tình, nhẹ nhàng hay mạnh mẽ sôi động mà động tác được diễn xuất phù hợp. Chẳng hạn, bài Hà Nội mùa vắng những cơn mưa của nhạc sĩ Trương Quý Hải, là bài hát thường dành cho đơn ca nữ, mang tính tự sự, trữ tình, nhịp độ thong thả nên xử lý động tác một cách nhẹ nhàng, thoải mái theo tình cảm của từng câu hát. Từ tư thế tay cho tới ánh mắt thể hiện sự mênh mang, dịu dàng như vẻ đẹp của Hà Nội được miêu tả trong bài hát. Đặc biệt chú ý các động tác không gò bó và không nên tuân thủ theo kịch bản có sẵn như những bài hát tập thể. Khi hát câu: “Hà Nội mùa này chiều không buông nắng, phố vắng nghiêng nghiêng cành cây khô…” thì ánh mắt nên nhìn xa xa, một tay có thể đưa lên dần lên phía trước rồi và thu tay dần về gần phía ngực.

 Thể hiện ánh mắt, nụ cười hay những động tác giơ tay, đi lại, cách biểu diễn trên sân khấu là một trong những yếu tố quan trọng trong biểu diễn, ngoài đáp ứng được vai trò thẩm mỹ còn giúp người hát có cảm xúc thể hiện giọng hát hay hơn, nâng cao chất lượng của tiết mục biểu diễn.

Một số vấn đề khác cần luyện tập trong biểu diễn nhạc nhẹ

Ngoài các kỹ thuật cần luyện tập nêu trên, trong biểu diễn nhạc nhẹ, còn có một số vấn đề khác như cầm micro, giao lưu với khán giả cũng rất cần được tập luyện. Nếu như biểu diễn ca khúc thính phòng cổ điển thường nghiêm túc duyên dáng, ca sĩ có thể đứng hát cả bài trước micro (có chân), người chỉ đu đưa nhẹ nhàng thì biểu diễn nhạc nhẹ khá thoải mái, thậm chí nhiều khi rất thoải mái, tự nhiên. Phong cách biểu diễn của nhạc nhẹ thường sôi động, náo nhiệt. Có những ca sĩ khi hát đoạn 1 với âm nhạc mang tính tự sự đã thực hiện tư thế đứng khá trang nghiêm trước chân micro như phong cách hát cổ điển nhưng sang đoạn 2 với giai điệu âm nhạc sôi động, trong tiếng vỗ tay hưởng ứng cuồng nhiệt của khán giả, ca sĩ thăng hoa, rút micro ra cầm tay và đẩy vút chân micro vào trong sân khấu rồi hát và nhảy bốc lửa, tạo cảm xúc mạnh mẽ cho tiết mục. Chỉ trong hát nhạc nhẹ mới làm như vậy, còn với hát ca khúc cổ điển hay dân ca thì động tác đẩy vút chân micro vào trong sân khấu của ca sĩ sẽ bị coi là phản cảm.

Trong biểu diễn ca khúc thính phòng cổ điển, giữa người biểu diễn và người thưởng thức thường có một khoảng cách phân định khá rõ ràng. Còn trong nhạc nhẹ, phong cách biểu diễn cũng thể hiện tính đại chúng, bình dân, “nhiều khi cả diễn viên và khán giả cùng hát, cùng nhảy, ca sĩ có thể xuống dưới sân khấu hòa cùng với khán giả, thậm chí có thể mời khán giả cùng lên sân khấu nhảy với mình” (4). Trường hợp bài hát Cơn mưa tình yêu của nhạc sĩ Mạnh Quân do nam ca sĩ Hà Anh Tuấn biểu diễn trên sân vận động là một ví dụ về sự giao lưu rất thú vị với các khán giả nữ bằng cách nam ca sĩ hát một câu, sau đó là các khán giả nữ đồng thanh hát câu tiếp theo. Để có thể giao lưu với khán giả, ca sĩ hát phải có một tâm thế hết sức thoải mái, tự tin, trình diễn bài hát nhuần nhuyễn, thường là những bài hát hay, nổi tiếng, phổ biến rộng rãi, rất được quần chúng mến mộ, nhiều người thuộc và hát được mới có thể giao lưu giữa ca sĩ và khán giả như vậy.

Yếu tố tâm lý giữ một vai trò quan trọng trong biểu diễn nhạc nhẹ, các ca sĩ nhạc nhẹ kể cả khi ở ngoài đời luôn có phong thái tự tin. Những ca sĩ, nghệ sĩ biểu diễn nhạc nhẹ thành công, ngoài giọng hát hay họ còn thể hiện sự thăng hoa mãnh liệt, thế giới âm thanh, cảm xúc khiến câu hát và các động tác sân khấu của họ trào dâng hơn, gây xúc động mạnh mẽ tới khán giả. Điều đó cũng lý giải vì sao nhạc nhẹ thu hút giới trẻ tới mức cuồng nhiệt, một buổi diễn có tới hàng ngàn người xem. Để có thể đạt được điều đó, trước tiên cần tới khả năng bẩm sinh của ca sĩ nhạc nhẹ nhưng không thể thiếu yếu tố rèn luyện. Càng rèn luyện nhuần nhuyễn, kỹ thuật biểu diễn càng đẹp hơn, lôi cuốn hơn.

4. Kết luận

Kỹ thuật biểu diễn đóng vai trò quan trọng cho sự thành công trong trình biểu diễn âm nhạc nói chung và ca khúc nhạc nhẹ nói riêng. Trong hát nhạc pop, rock, phong cách biểu diễn có thể được coi ngang hàng với giọng hát, quyết định 50% sự thành công của tiết mục, người xem không chỉ nghe hát mà còn thưởng thức cách trình diễn của ca sĩ. Nhạc nhẹ đòi hỏi cao về nghệ thuật biểu diễn: sôi động, mới mẻ, hấp dẫn, điêu luyện; hình thể đẹp, ăn mặc đẹp, bắt mắt… Vì thế, việc rèn luyện kỹ thuật biểu diễn rất cần được chú ý từ luyện tập nhảy múa, các động tác hình thể, cho đến việc biểu cảm nét mặt, sử dụng micro, tâm lý biểu diễn, chuẩn bị trang phục…

___________________

1. Nhiều tác giả, Jazz – Rock – Pop, Nxb Âm nhạc, Hà Nội, tr.40.

2, 4. Nguyễn Thị Tố Mai, Những ca khúc Việt Nam có tiếp thu phong cách nhạc Rock, Luận văn ngành Lý luận âm nhạc, Nhạc viện Hà Nội, Hà Nội, 1992, tr.42, 18.

3. Vũ Tự Lân, Lịch sử nhạc Jazz – Rock – PopTrường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2008, tr.79.

Tài liệu tham khảo

1. Vũ Hội, Nhạc Pop nay ở đâu?, Tạp chí Âm nhạc Việt Nam, số 3-2021.

2. Larry Starr, Christopher Waterman, American popular music (Âm nhạc đại chúng Mỹ), Nxb Đại học Oxford, Hoa Kỳ, 2003-2007.

3. Armand M Leroi, The evolution of popular music: USA 1960-2010 (Sự phát triển của âm nhạc đại chúng Mỹ 1960-2010)royalsocietypublishing.org, 2015.

Tác giả: ĐỖ THỊ LAM

Nguồn: Tạp chí VHNT số 575, tháng 7 – 2024