Tác giả : VĨNH PHÚC
Tín ngưỡng thờ mẫu là một trong những hình thức tín ngưỡng dân gian khá phổ biến ở Việt Nam, có nguồn gốc sâu xa từ tục thờ mẹ của cư dân nông nghiệp nhằm đề cao vai trò, chức năng thiêng liêng của người phụ nữ trong cuộc sống. Trong đó, hát chầu văn là một thể loại âm nhạc gắn chặt với tín ngưỡng này, được xem như một thành tố không thể thiếu khi thực hiện các nghi lễ hầu bóng.
1. Khái lược về tín ngưỡng thờ mẫu
Vào TK XVI, XVII, sự xuất hiện của phủ Giày, đền Sòng với sự chứng giám sắc phong của nhà nước phong kiến thời bấy giờ đã đánh dấu sự ra đời của tín ngưỡng thờ mẫu. Các nhà nghiên cứu gọi đây là thời kỳ sơ khai của đạo Mẫu và xem đó là một hiện tượng biểu thị sự giác ngộ tinh thần dân tộc của tầng lớp nho sĩ, họ khát khao hướng tới một kiểu tôn giáo có sắc thái riêng của Việt Nam.
Cuối TK XIX, đầu TK XX được xem là thời kỳ phổ biến sâu rộng việc thờ mẫu, các điện thờ được xây dựng ở khắp nơi. Nhân dân nô nức tham gia lễ hội ở phủ Giày, đền Sòng, điện Hòn Chén, núi Bà Đen… Hiện tượng này thể hiện tâm thức hướng về cội nguồn khi đất nước rơi vào sự đô hộ của thực dân Pháp (1). Vào thời kỳ đình, chùa, miếu được nhà nước chú ý, phục hồi, tín ngưỡng thờ mẫu cũng được thịnh hành, bén rễ sâu trong nhân dân.
Như vậy, tín ngưỡng thờ mẫu là một một trong những hình thức tín ngưỡng dân gian khá phổ biến ở Việt Nam. Trong quá trình tiếp thu văn hóa Trung Hoa, tín ngưỡng thờ mẫu phần nào chịu ảnh hưởng từ Đạo giáo, với biểu hiện như lên đồng, dùng bùa yểm chú trừ tà ma, trị bệnh bằng phương thuật phù thủy… (2). Người Việt đã dựa trên nền tảng của niềm tin về các nữ thần để tiếp thu, biến đổi những yếu tố ngoại lai cho phù hợp với tín ngưỡng dân gian hình thành nên tín ngưỡng thờ mẫu mang nét văn hóa tâm linh rất độc đáo. Tuy nhiên, do truyền thuyết về sự linh ứng của các vị nữ thần ở mỗi địa phương khác nhau nên hệ thống thờ tự thánh mẫu cũng không thống nhất mà có sự biến đổi tùy theo vùng miền. Trong đó, vị trí tối thượng của ba vị nữ thần tiêu biểu cho ba miền là mẫu Liễu Hạnh (Vân Cát thần nữ) phổ biến ở miền Bắc, Thiên Yana (Poh Nagar) ở miền Trung, Bà Đen (Muk Juk) ở miền Nam.
Mẹ là nguồn gốc của sự sống, thờ mẹ, mẫu chính là đạo. Thánh mẫu Liễu Hạnh là tấm gương người phụ nữ đầy đủ tài đức được nhân dân tôn thờ và càng ngày được chồng chất những lớp bổ sung để thấy rõ nhân cách của vị thánh bất tử này. Trải qua quá trình biến động của lịch sử, quan điểm ngũ hành tương sinh tương khắc ít nhiều ảnh hưởng đến tín ngưỡng thờ mẫu, đặc biệt là sự hình thành tín ngưỡng tứ phủ. Trời đất, sông nước, núi rừng, hình tượng người mẹ luôn luôn được nhắc tới một cách thành kính, trang trọng. Trời thì có mẫu thiên; đất có mẫu địa; sông nước, biển cả có mẫu thoải; núi rừng có mẫu thượng ngàn. Các thánh mẫu được tôn thờ gắn với quá trình dựng nước và giữ nước, đáp ứng được nguyện vọng của quần chúng nhân dân.
2. Tín ngưỡng thờ mẫu ở Huế
Ở Huế có truyền thuyết về người đàn bà thần tiên đã xuất hiện giúp đời, gắn với địa điểm núi Ngọc Trản thuộc làng Hải Cát. Dân làng dựng một ngôi đền tại hòn núi này để thờ bà. Theo thần sắc do vua Minh Mạng ban thì đền đã có từ thời Gia Long (1802 – 1819). Chắc hẳn kiến trúc của đền bấy giờ còn rất đơn giản. Sử sách triều Nguyễn ghi rõ rằng, vào tháng 3 – 1832 vua Minh Mạng đã cho tu sửa và mở rộng đền. Sau đó 2 năm đền lại được trùng tu. Năm 1886, sau khi tức vụ, vua Đồng Khánh cho xây lại đền một cách khang trang, làm thêm nhiều đồ tự khí để thờ và đổi tên ngôi đền thành Huệ Nam điện để tỏ lòng biết ơn thánh mẫu. Huệ Nam nghĩa là ban ân huệ cho nước Nam, vua Nam. Dưới thời vua Đồng Khánh, “tín ngưỡng thờ mẫu đạt đến điểm cực thịnh, điện Huệ Nam trở thành trung tâm thờ mẫu được chính quyền phong kiến thừa nhận và nhân dân thường xuyên lễ bái. Từ đó, lễ vía mẹ được vua Đồng Khánh xem như quốc lễ và điện Hòn Chén đã trở thành trung tâm hành hương của tín đồ thờ mẫu” (3).
Khi tiến về phương Nam, mẫu Thiên Yana đồng hóa với thánh mẫu Liễu Hạnh trở thành Thiên Tiên Thánh giáo. Hai dòng chảy của việc thờ mẫu Nam – Bắc ấy tụ hội với nhau tại Huế, nảy sinh ra điện Hòn Chén bên bờ sông Hương, một thắng tích của cố đô (4). Điện Hòn Chén không chỉ là một di tích tôn giáo nổi tiếng mà còn là một thắng cảnh hữu tình. Trong bóng cây cổ thụ có thấp thoáng mái điện rêu phong, có hình chim phụng đang vỗ cánh bay lên trời. Năm 1886, vua Đồng Khánh đã ví toàn cảnh của điện Hòn Chén như sư tử đang vươn đầu uống nước dưới sông Hương.
Ngày nay, tại điện Hòn Chén các con tôi đệ tử của Thiên Tiên Thánh giáo cử hành một cách không chính thức mỗi năm 15 lễ vía khác nhau. Trong đó, lễ tế thu vào đầu tháng 7 âm lịch là trọng thể nhất vì đây vừa là ngày hội tại đền, vừa là ngày lễ rước sắc hàng năm của dân làng Hải Cát tại điện Hòn Chén.
Tổng hội Thiên Tiên Thánh giáo thành lập năm 1953, một tổ chức tôn giáo quy tập đông đảo tín đồ thờ mẫu thuộc nhiều tầng lớp, khởi phát từ giới quan lại, thượng lưu quý tộc… mà điện Huệ Nam – Hòn Chén là một trong hai thánh địa của Thiên Tiên Thánh giáo tại miền Trung (5).
Hàng năm, ngày 1 – 7 người ta đi xin keo để biết ý thánh mẫu về việc chọn ngày từ mồng 8 đến 12 tháng ấy. Theo lệ cũ, lễ được cử hành trong 2 ngày liên tiếp. Trong những ngày ấy, con tôi đệ tử về hành hương ở điện Hòn Chén. Họ tập trung về đây trước đó cả mấy hôm rồi lên bằng xe, bằng thuyền trong những bộ y phục sặc sỡ, cổ xưa nhất. Cuộc hội hè diễn ra rất tưng bừng, náo nhiệt từ chiều ngày đầu tiên, thâu đêm cho đến buổi sáng ngày thứ ba. Ngày xưa, triều đình nhà Nguyễn thường cử một đại thần thay mặt vua lên đền dự lễ cho thêm phần trọng thể.
Trong không khí nhộn nhịp của cung đàn tiếng phách, điệu chầu văn du dương, trầm bổng, mùi vị hương trầm tỏa ngát, những người tham dự bị lôi cuốn vào một thế giới đầy sự tưởng tượng. Ở đó, họ trở thành thánh mẫu, chúa thượng ngàn, các cô, các cậu… nhảy múa với một dáng điệu, ngôn ngữ lạ thường.
Trong khi đó, dân làng Hải Cát tề tựu đông đảo tại đình làng vào ngày thứ hai, đi trên những chiếc thuyền có đủ hoa thường gọi là Đò Ấn hoặc 2 chiếc kết lại với nhau gọi là Bằng hoặc Lâu Bằng, về đền rước sắc, đưa lên đình làm lễ tế. Sáng hôm sau, họ lại rước về trả lại đền thờ. Trong những dịp rước kiệu như thế, phần lớn các tín đồ đều hóa trang làm thánh thần, làm chư ông, chư cô hoặc đội lốt người và thú vật sống trên rừng nữa, như chúa thượng ngàn hoặc ông hổ.
3. Hát chầu văn Huế
Trong âm nhạc truyền thống Huế, hát chầu văn là một thể loại âm nhạc nghi lễ tín ngưỡng dân gian, gắn với tục thờ mẫu. Chầu văn Huế được phát triển rộng rãi, không chỉ ở Huế mà còn lan rộng ra các tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng, Bình Định, Khánh Hòa, Lâm Đồng, TP.HCM…
Ở Huế, tín ngưỡng thờ mẫu rất phổ biến nên số lượng am, điện tương đối nhiều. Đó là điều kiện thuận lợi cho môi trường diễn xướng của chầu văn Huế phát triển và thực hiện đúng chức năng vốn có. Hàng năm, vào trung tuần tháng ba, tháng bảy âm lịch, đông đảo tín đồ thuộc mọi tầng lớp ở Huế cũng như trên địa bàn miền Trung hành hương đến điện Hòn Chén. Ngoài vai trò là một thánh địa của đạo Mẫu ở miền Trung, điện Hòn Chén vào những ngày lễ hội có thể xem như một sân khấu lớn quy tụ nhiều nhóm nhạc chầu văn trong tỉnh cũng như ngoài tỉnh. Chính quy mô diễn xướng được mở rộng càng cho thấy sự phong phú, sức mạnh lan tỏa của chầu văn đối với đời sống tâm linh.
Các vị vua đầu triều Nguyễn là những nhà nho chính thống nên không ủng hộ sinh hoạt tín ngưỡng thờ mẫu, thậm chí còn chủ trương bài xích đồng bóng bởi cho đó là dạng tà ma, mê tín. Đến thời vua Đồng Khánh thì hoạt động tín ngưỡng này mới được khuyến khích, mở rộng và những điều cấm kỵ của nhà Nguyễn trước đó đối với quần chúng lại được dịp giải tỏa (6). Đó là cơ hội cho hoàng thân quốc thích, quan lại, giới quý tộc tham gia vào hoạt động này và hiển nhiên các am, điện thờ mẫu xuất hiện ngày càng nhiều tại các dinh cơ, phủ đệ. Từ đó một loại ca hát phục vụ vương triều gọi là chầu văn, nay gọi là chầu văn Huế (7). Môi trường diễn xướng của chầu văn Huế không chỉ gói gọn trong sinh hoạt tín ngưỡng dân gian mà còn thâm nhập vào chốn cung đình, quyền quý để phục vụ nhu cầu thưởng thức của vua chúa, quan lại, quý tộc.
Cho đến nay, chưa có ai có thể khẳng định được chầu văn Huế ra đời từ năm nào, bắt nguồn từ đâu và do ai sáng tác… Tất cả những tư liệu chầu văn để lại không thấy ghi tên tuổi, ngày tháng ra đời, chỉ biết rằng nó được phát triển rất thịnh đạt ở Huế dưới các triều vua Nguyễn.
Chầu văn có nhiều cách gọi khác nhau, miền Bắc gọi là hát văn, miền Trung gọi là hát chầu văn hoặc hầu văn, miền Nam gọi là rỗi bóng. Âm nhạc trong hát chầu văn ở Huế và hát văn ở miền Bắc có nhiều điểm không giống nhau.
Chầu văn Huế thì hát đơn, hát đôi, hát tập thể, có khi cả ban công văn (8 – 10 người) cùng đứng hát, nhảy múa, hát theo từng tính chất giá hầu. Miền Bắc chỉ hát đơn, đệm nhạc có trống, mõ, đàn nguyệt, thanh la, khi chầu đồng chỉ ngồi ít khi đứng.
Nội dung những bài hát chầu văn thường mô tả, diễn đạt sự tích ca ngợi các vị thánh, thần, tiên được thờ trong điện, gắn liền với những truyền thuyết và câu chuyện dân gian.
Về môi trường diễn xướng, chầu văn là loại hát thờ, hát trước bàn thờ thánh, gắn bó chặt chẽ với các nghi lễ tại am, điện thờ thánh mẫu. Đây là loại văn để hầu bóng, gọi là văn ca thỉnh hàm (được thể hiện thành lời ca, hát), thỉnh mời các vị thần thánh giáng trần, hóa vào các con đồng để phán bảo.
Trong quá trình hành lễ, con đồng sẽ hóa thân vào các vị thần linh để phán truyền, dạy bảo, chữa bệnh hay ban phát tài lộc cho những người tham gia buổi lễ. Trong suốt thời gian tiến hành nghi lễ hầu bóng, chầu văn đóng vai trò quan trọng, thôi miên người ngồi đồng, tạo điều kiện thuận lợi cho con đồng nhập bóng, giúp việc nhập hồn của các vị thần linh vào con đồng được linh ứng. Sau khi đức thánh bà nhập đồng chứng đàn thì cung văn sẽ tùy vào từng giá đồng để chọn những bài văn chầu phù hợp với từng vị thần linh nhập giá, bởi mỗi vị thần linh có một tính cách, đặc điểm ngoại hình, phục trang, cử chỉ riêng. Thế nên, môi trường diễn xướng của âm nhạc chầu văn diễn ra đồng thời với nghi lễ lên đồng, hầu bóng tại các am, điện thờ thánh mẫu.
Các bài hát chầu văn thường có nội dung ngợi ca, tán thán các vị thần thánh, cảnh vật trên thiên giới. Người hầu đồng (con đồng) cũng như các con nhang đệ tử dự lễ đều ước muốn được thần thánh phù hộ cho bản thân và gia đình luôn gặp may mắn, bình an. Đặc biệt, theo quan niệm của những người buôn bán thì tham gia vào những buổi lễ lên đồng là hình thức cầu xin thần thánh giúp họ ăn nên làm ra.
Quá trình tiến hành nghi lễ, một cuộc hát chầu văn dài hay ngắn phụ thuộc vào tính chất nghi lễ, số lượng các giá đồng, thời gian ngồi đồng của các con đồng, tuy nhiên, về quy trình thì có những nguyên tắc tương đối ổn định. Khi đề cập đến quy trình diễn xướng của cuộc hát chầu văn cũng là đề cập đến quy trình của một buổi lên đồng, vì thế âm nhạc cũng chia làm nhiều giai đoạn: trước tiên là lễ cúng thí thực do người chủ am, điện chủ trì, sau đọc lá sớ là hát sai quan tướng, cung văn hát điệu khải…; tiếp đến là lễ cung thỉnh, hát chầu văn thờ theo điệu văn cúng, phú, nhị tự với tính chất chúc tụng, ca ngợi, thỉnh mời các vị thần thánh, sau đó hát dọc, hát rập tốc độ nhanh, tiết tấu sôi động để kích bóng lên; sau đó là hát giọng cờn, giọng phú (tùy theo bóng cô, cậu), sau đó là phần giáng bút, phán truyền, dạy bảo, mọi người tham gia lắng nghe, nhạc không diễn tấu; cuối cùng là ban lộc, hát phú khách, thánh thăng, cung văn kết thúc giá đồng bằng câu: “xe giá hồi cung”.
Về hiện tượng lên đồng, các nhà dân tộc học, tâm lý học, âm nhạc học trong cũng như ngoài nước rất chú ý, tìm hiểu, nghiên cứu các hiện tượng lên đồng trong tín ngưỡng thờ mẫu ở nước ta. “Lên đồng là một nghi thức của đạo Mẫu… mang tính bản địa của người Việt. Tuy nhiên, nếu xét thuần túy về khía cạch tôn giáo học thì nó lại mang những nét khá đặc trưng của Shaman giáo, một loại hình tôn giáo tín ngưỡng phổ quát trên thế giới” (8). Khi lên đồng, vai trò âm nhạc chi phối phần lớn, thử xem thang âm điệu thức nào, tiết tấu nào hoặc sự thay đổi điệu thức, tiết tấu gây ra trạng thái tâm hồn đi đến chỗ nhập vai lên đồng.
Trong nghi thức lên đồng, người ngồi đồng với tâm niệm tin tưởng tâm linh, bày tỏ lòng yêu kính thần linh, cầu khẩn thỉnh thần về, khi thần nhận lời thì sẽ nhập vào người đó và ban ân phước (9). Các con nhang đệ tử ngồi đồng phải có ý thức trong hành lễ. Người ngồi đồng phần lớn là các bà, các chị nông dân, những người buôn bán ở thị trấn gần xa, họ cầu mong giải oan số phận, gửi gắm niềm tin… Cầu đồng một chuyến để thánh thần cứu giúp, chở che, tai qua nạn khỏi, cuộc sống được yên lành, gặp nhiều may mắn thuận lợi.
Trong trình thức lên đồng, rất ít khi hầu bóng mẫu, bởi mẫu chỉ giáng những lúc có đại sự quốc gia hoặc trong lễ rước hàng năm. Thông thường người ta hầu bóng các vị trong tứ phủ công đồng, có thể các ông quan thanh tra giám sát, ông hoàng, cô, cậu… Người ta hay chọn một số giá hầu diễn xuất như: Cô đôi thượng ngàn, Cô bơ thủy phủ, cô bơ… cung hiến cho khán giả những màn kịch múa, cưỡi ngựa múa gươm, chèo đò, bắt bướm… Hiện tượng lên đồng có liên quan đến các trò âm nhạc, hát múa. Giai điệu, nhịp điệu, lời ca tạo không khí dẫn dắt người nghe, người ngồi đồng vào thế giới tâm linh. Nhịp điệu tự do, lúc thì 3/4, lúc thì 4/4 với chất tự sự nhẹ nhàng, sâu lắng. Những tay đàn phải tỏ ra điêu luyện, nếu để âm thanh lọt qua tiếng hát một cách vụng về, dễ bị mời ra khỏi cuộc…
Hát chầu văn có vai trò quan trọng trong các buổi lên đồng, là phương tiện kết hợp đồng thời với trình tự lễ lên đồng để thỉnh cầu thần linh phù hộ, cũng như phản hồi thông tin từ các vị thần linh. Trong lễ lên đồng, chầu văn đóng vai trò kết nối giữa thế giới thần linh với thế giới trần tục. Nó hỗ trợ đắc lực cho các con đồng nhanh chóng nhập giá để vào vai các vị thần linh truyền dạy, chỉ bảo. Trong không gian linh thiêng, các con đồng nhảy múa theo tiếng nhạc rộn ràng, mỗi cử chỉ, điệu bộ, ngôn ngữ, phong thái… của con đồng đều được các cung văn tấu lên những làn điệu tương ứng, phù hợp từng khoảnh khắc giao tiếp với thần linh. Ngoài ra, không gian nghi ngút khói hương, rực rỡ ánh nến, trang phục, vật phẩm… còn là chất xúc tác tăng thêm sự phấn khích cho các cung văn, bà đồng hợp nhất với thần linh. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa hai đối tượng ấy có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong suốt quá trình diễn xướng nhằm tái hiện tổng quát tính cách, chân dung nhân vật đang hóa thân.
Lời ca trong những điệu văn luôn kết hợp với các áng văn chầu để đề cao vai trò của thánh mẫu với việc tạo dựng đất đai, cây cối, dạy cách trồng lúa nước, trừ tà diệt ác đem lại cho nhân dân cuộc sống ấm no, bình yên. Những lúc gặp điều rủi ro, bệnh tật các tín đồ cũng thường đặt niềm tin vào thánh mẫu, họ tin rằng quyền lực siêu nhiên của thánh mẫu sẽ giúp họ vượt qua hoạn nạn. Họ gửi gắm ước nguyện của mình bằng hình thức tổ chức cúng bái, lên đồng như một phương tiện cứu cánh nhằm giải mã những điều bí ẩn xung quanh mình. Sự hiện hữu niềm tin diễn ra đồng thời với sự phát triển của lễ thức lên đồng như một nhu cầu tiềm ẩn có sẵn trong từng tín đồ. Sự kết hợp của thơ ca, âm nhạc tạo nên hình ảnh thánh mẫu đầy quyền năng, có ảnh hưởng vô cùng sâu đậm trong đời sống tín ngưỡng.
Hát chầu văn Huế được hình thành và phát triển trên cơ sở kế thừa vốn âm nhạc truyền thống của dân tộc để phục vụ tín ngưỡng thờ mẫu. Nó mang những giá trị văn hóa tinh thần sâu sắc, vừa thể hiện nhu cầu thẩm mỹ vừa thể hiện ước vọng tâm linh của con người trong cuộc sống. Vì vậy, âm nhạc chầu văn Huế không chỉ là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng, văn hóa cộng đồng mà còn là một loại hình âm nhạc dân gian độc đáo cần được giữ gìn, phát huy trong đời sống hiện đại.
_____________
1. Đặng Văn Lung, Tam tòa thánh mẫu, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1991.
2. Trần Đại Vinh, Tín ngưỡng dân gian Huế, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2006, tr.138-139.
3, 5, 6. Nguyễn Hữu Thông, Hải Cát Đất và Người, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2006, tr.188, 223, 163.
4. Trần Thu Hà, Đặng Văn Lung, Văn hóa dân gian Thừa Thiên Huế, số 12, 1993 và 11, 1995.
7. Bùi Đình Thảo, Hát chầu văn, Nxb Âm nhạc, Hà Nội, 1996, tr.18-19.
8, 9. Ngô Đức Thịnh, Lên đồng – Hành trình của thần linh và thân phận, Nxb Trẻ, TP.HCM, 2008, tr.93, 94.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 407, tháng 5 – 2018