Tác giả: Lê Trọng Nin
Trải qua bao thập kỷ, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã xác định rõ vị trí, vai trò và cũng là đường lối, mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo ở nước ta, đó là: Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Quan điểm này là bài học được rút ra từ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Đó cũng là bài học của cả nhân loại đúc kết qua suốt mấy nghìn năm hình thành và phát triển nền văn minh. Phát triển giáo dục chính là xây dựng nền móng văn hóa dân tộc, là cơ sở để phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; đồng thời là cơ sở thiết yếu để đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Tiếp tục thực hiện chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đề ra, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh phương hướng: Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học – công nghệ, với yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động. Phấn đấu trong những năm tới, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân.
Trong bối cảnh đó, giáo dục thẩm mỹ có nhiệm vụ lớn trong việc xây dựng nền văn hóa mới, con người mới ở nước ta, mà mục tiêu trọng tâm là tạo cơ sở đúng đắn cho hoạt động thưởng thức, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ của chủ thể; nhằm phát triển toàn diện các mặt đời sống của xã hội và của con người. Chính vì vậy, trước hết, giáo dục thẩm mỹ phải nhằm đạt tới mục đích chung là nâng cao văn hóa thẩm mỹ trong mọi hoạt động của cá nhân và xã hội. Nói đến văn hóa thẩm mỹ là nói đến ý thức thẩm mỹ, hoạt động thẩm mỹ và các giá trị thẩm mỹ. Giáo dục thẩm mỹ là quá trình chuyển hóa văn hóa thẩm mỹ của xã hội thành văn hóa thẩm mỹ của cá nhân, nhằm hình thành nên các cá nhân có trình độ thẩm mỹ, có nhu cầu thẩm mỹ, hoạt động thẩm mỹ. Qua đó, góp phần phát triển toàn diện, hài hòa các cá nhân; bồi dưỡng cho họ về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống; tạo ra nhiều tài năng trong mọi lĩnh vực hoạt động, nhất là trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI ngày 9-6-2014 về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” cũng đã xác định rõ nhiệm vụ cấp bách của chúng ta hiện nay là phải “tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho nhân dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên. Phát huy vai trò của văn học – nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm của con người. Bảo đảm quyền hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của mỗi người dân và của cộng đồng” (1).
Như vậy, những vấn đề có tính định hướng cho sự nghiệp giáo dục thẩm mỹ không thể nằm ngoài chiến lược giáo dục của quốc gia. Từ đó, cần quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; thực hiện quyết liệt hơn nữa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Từng bước nâng cao nhận thức về vai trò quyết định chất lượng giáo dục, đào tạo của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; người học là chủ thể trung tâm, gia đình có trách nhiệm phối hợp với nhà trường và xã hội trong nhiệm vụ giáo dục thẩm mỹ.
Trên cơ sở mục tiêu, phương hướng chung của giáo dục và giáo dục thẩm mỹ, cũng như để phát huy vai trò của âm nhạc đại chúng trong quá trình giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên, cần bám sát vào một số định hướng và cơ chế sau:
1. Giáo dục thẩm mỹ thông qua ÂNĐC phải phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của sinh viên
Phải xác định rõ đối tượng cần giáo dục, từ đó thiết kế ý tưởng, chương trình giáo dục sao cho phù hợp với nhu cầu của người học. Việc sử dụng ÂNĐC trong quá trình giáo dục thẩm mỹ phải được xác định trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu âm nhạc của sinh viên. Cần nhận diện những điểm sinh viên hài lòng nhất, cũng như những điểm họ chưa hài lòng. Đó là những yếu tố quan trọng để khai thác, nhằm phát triển các chương trình giáo dục thẩm mỹ phù hợp; trong đó, nội dung giáo dục phải bảo đảm tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện đại và có hệ thống; coi trọng giáo dục tư tưởng và ý thức công dân; kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phù hợp với sự phát triển về tâm sinh lý lứa tuổi của người học.
Với cùng một đối tượng, bên cạnh việc thỏa mãn nhu cầu âm nhạc có tính chất chung cho tất cả công chúng, khán giả, thì ở mỗi nhóm công chúng âm nhạc khác nhau, họ lại có thể thỏa mãn những nhu cầu riêng của mình, tùy thuộc vào nhận thức, mục đích thỏa mãn cũng như đặc điểm tâm lý của các nhóm công chúng. Và thông thường, tính hấp dẫn của tác phẩm âm nhạc tỷ lệ thuận với tác động gây xúc cảm cho chủ thể thưởng thức. Điều đó phụ thuộc vào sự tham gia của thị hiếu trong quá trình thưởng thức tác phẩm của chủ thể, tạo cho họ những trạng thái, tình cảm yêu thích, hay ngược lại. Nói cách khác, thị hiếu gắn liền với nhu cầu và bị chi phối bởi các yếu tố tâm lý, trình độ văn hóa, hoàn cảnh, đặc điểm hoạt động của chủ thể. Do đó, nếu không tìm hiểu nhu cầu, thị hiếu của sinh viên, việc lựa chọn nội dung để đưa vào các chương trình giáo dục thẩm mỹ cũng sẽ thiếu đi tính thực tế, làm giảm hiệu quả của quá trình giáo dục. Trên cơ sở đó, một mặt cần tôn trọng và thừa nhận lợi ích cá nhân chính đáng của sinh viên; mặt khác cần định hướng các nhu cầu thẩm mỹ của họ, bởi lẽ đó là nhân tố quyết định mọi hoạt động của sinh viên, giúp họ điều chỉnh được những tác động tiêu cực từ lợi ích cá nhân của bản thân trong việc lựa chọn, sáng tạo và thưởng thức âm nhạc. Khi công chúng, sinh viên không còn có những nhu cầu “lệch lạc” trong thưởng thức và sáng tạo âm nhạc, thì các sản phẩm âm nhạc “phản văn hóa” cũng sẽ tự đào thải.
Việc xây dựng các chương trình giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua ÂNĐC hiện nay, trước hết phải phù hợp với tính chất của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Xác định rõ điều này sẽ giúp chúng ta định hướng một cách đúng đắn việc gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng nền âm nhạc tiên tiến với việc giữ gìn sắc thái và bản lĩnh văn hóa của đất nước trong quá trình xây dựng lối sống văn hóa cho sinh viên. Cần phải làm cho sinh viên hiểu rằng, mọi hoạt động thẩm mỹ của chúng ta hôm nay đều thực hiện theo nhu cầu của cuộc sống hiện tại, nhưng giá trị của chúng đều có nguồn gốc sâu xa từ trong truyền thống. Hiện tại bắt nguồn từ truyền thống, tương lai bắt nguồn từ hiện tại. Xa rời truyền thống, xa rời cội nguồn sẽ không thể có sự phát triển bền vững và lâu dài.
Để giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua ÂNĐC đạt hiệu quả, cần lấy đối tượng sinh viên làm trung tâm của các hoạt động giáo dục thẩm mỹ và được thực hiện trên cơ sở tôn trọng những đặc điểm đặc trưng của sinh viên, phát huy tính chủ động, tích cực của họ trong suốt quá trình giáo dục. Các hoạt động của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên phải giúp sinh viên hình thành được những giá trị, những chuẩn mực thẩm mỹ cao đẹp, phù hợp với lý tưởng sống; đồng thời kiên quyết khắc phục mọi biểu hiện của những tư tưởng, lối sống không lành mạnh. Cần trao quyền tự chủ cho sinh viên trong mọi việc, từ sáng tạo, đề xuất cho đến hiện thực hóa các ý tưởng, triển khai các hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên.
2. Giáo dục thẩm mỹ thông qua ÂNĐC phải từng bước nâng cao trình độ hiểu biết, cảm thụ và sáng tạo nghệ thuật cho sinh viên
Giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua ÂNĐC nghĩa là phải định hướng, nâng cao được thị hiếu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ của sinh viên, giúp họ hình thành nên một lối sống lành mạnh, trong một môi trường âm nhạc được hình thành bởi những sản phẩm âm nhạc đảm bảo chất lượng về cả nội dung lẫn hình thức, có tính giáo dục, hướng tới chân – thiện – mỹ. Điều này một mặt đòi hỏi phải xây dựng được đội ngũ văn nghệ sĩ, những người hoạt động trong lĩnh vực âm nhạc có đạo đức nghề nghiệp và tính chuyên nghiệp cao; mặt khác, phải chú trọng nhiều hơn tới quá trình giáo dục thẩm mỹ trong nhà trường; tạo mối quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Trong quá trình giáo dục thẩm mỹ, cần nhận thức và đánh giá đúng về vai trò của ÂNĐC đối với sự hình thành và phát triển khả năng nhận thức thẩm mỹ cao đẹp cho sinh viên. Từ đó, mở rộng các hoạt động ÂNĐC của chính sinh viên trong các trường đại học và cao đẳng; bồi dưỡng khả năng lựa chọn đối tượng theo yêu cầu thẩm mỹ của cá nhân, biểu hiện ở thái độ thích hay không thích, khen hay chê, đồng tình hay phản đối… đối với một hiện tượng xã hội – thẩm mỹ trong cuộc sống hay một tác phẩm nghệ thuật nào đó một cách đúng đắn, nhạy bén, như là sự phản ứng của một thói quen. Phải làm cho bất cứ người thưởng ngoạn hoặc sáng tác nào cũng luôn luôn giải quyết tốt nhất mối quan hệ giữa sở thích cá nhân với các chuẩn mực thẩm mỹ xã hội và phù hợp với các điều kiện hiện có của lịch sử dân tộc.
Karl Marx từng nói: “Nếu anh muốn thưởng thức nghệ thuật, thì trước hết anh phải được giáo dục về nghệ thuật” (2). Vì vậy, giáo dục thẩm mỹ thông qua ÂNĐC là phải giúp sinh viên nâng cao trình độ hiểu biết về nghệ thuật nói chung và âm nhạc nói riêng. Từ đó, cần nâng cao tri thức thẩm mỹ cho sinh viên bằng cách trang bị cho họ những tri thức khoa học về nghệ thuật, biết vận dụng chúng vào quá trình cảm thụ, sáng tạo nghệ thuật và hoạt động sống; đồng thời có khả năng cảm nhận sâu sắc tác phẩm nghệ thuật trong quan hệ với những mảng hiện thực tương đồng trong cuộc sống. Việc bồi dưỡng vốn thực tiễn văn hóa, nghệ thuật cho sinh viên sẽ mang lại cho họ những giá trị, những hình mẫu, kinh nghiệm của nghệ thuật, lôi cuốn họ tham gia vào hoạt động nghệ thuật, cũng như vận dụng những phương thức sống điển hình trong nghệ thuật vào cuộc sống của bản thân, làm cho sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật nói chung ngày càng trở thành nhân tố quan trọng trong đời sống tinh thần của mỗi người. Đồng thời, cần trang bị vốn lý luận văn hóa, nghệ thuật cho sinh viên để họ hiểu được nét đặc thù của từng loại hình nghệ thuật với những trường phái, phong cách, ngôn ngữ, bút pháp và kỹ xảo nghệ thuật riêng. Điều này sẽ giúp sinh viên phát hiện được cái độc đáo của từng tác phẩm nghệ thuật, mở rộng phạm vi cảm thụ, chiếm lĩnh được những tác phẩm nghệ thuật có giá trị. Vì vậy, bằng những hình thức và biện pháp khác nhau, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa bồi dưỡng lý luận văn hóa, nghệ thuật với thực hành nghệ thuật trong công tác giảng dạy, đào tạo, làm cho hai mặt này thống nhất với nhau thành một chỉnh thể trong sự phát triển trình độ văn hóa, nghệ thuật của sinh viên.
3. Giáo dục thẩm mỹ thông qua ÂNĐC phải giúp sinh viên hình thành và phát triển quan niệm về cái đẹp, hướng tới hoàn thiện nhân cách văn hóa cho sinh viên
Giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên thông qua ÂNĐC xét đến cùng là phải giúp sinh viên có nhận thức đúng đắn về cái đẹp trong cuộc sống và nghệ thuật, bao gồm cả những điều đối lập với cái đẹp (cái xấu, cái ác). Đó là việc bồi dưỡng cho mỗi người một hệ thống những quan điểm, quan niệm có tính chất hoàn thiện về cái đẹp. Qua đó, người được giáo dục biết khen đúng cái đẹp, biết phê bình đúng cái chưa đẹp, có quan điểm riêng về cái đẹp, không để trào lưu, số đông lôi cuốn, dẫn dắt một cách tùy tiện.
Thông qua các thể loại ÂNĐC, cần giáo dục cho sinh viên biết tôn trọng các nền văn hóa, các giá trị khác nhau của xã hội đa dạng, không cảm thấy kỳ thị với các biểu hiện văn hóa khác nhau, không tự ti với bản sắc văn hóa thuộc nhóm thiểu số, không tự đại với một nền văn hóa có nhiều sản phẩm đại diện. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế về nhiều mặt hiện nay, giao lưu văn hóa có khả năng tạo ra những biến đổi to lớn về diện mạo, đặc điểm, thể loại của âm nhạc đại chúng ở Việt Nam. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện thông tin đại chúng và của nền công nghệ giải trí, sinh viên có nhiều cơ hội để tiếp cận với những tinh hoa âm nhạc của thế giới. Tuy nhiên, quá trình này lại dễ dẫn đến nguy cơ “đồng nhất hóa” các giá trị tinh thần của loài người. Đối với sinh viên, việc chưa định hình, hoàn chỉnh về mọi mặt, đặc biệt ở khía cạnh nhân cách, nên sinh viên cũng dễ tiếp thu những giá trị tiêu cực, không lành mạnh, tạo nên sự lệch lạc trong phát triển nhân cách của bản thân. Vì vậy, thông qua việc tổ chức các hoạt động âm nhạc, phải giúp sinh viên nhận thức rõ: Không phải mọi cái hiện đại đều là tiên tiến. Tiên tiến phải có tính hiện đại nhưng nó không đồng nghĩa với cái mới, vì không phải cái mới nào cũng lành mạnh, cũng tiến bộ, mà còn có cả những cái lai căng, thiếu lành mạnh, phi thẩm mỹ. Việc đón nhận cái mới từ bên ngoài vào một cách thiếu chọn lọc không chỉ làm suy thoái lối sống và đạo đức xã hội nói chung và của sinh viên nói riêng, mà còn tạo ra một nền văn hóa lai căng, thiếu bản sắc.
Bên cạnh đó, cần nâng cao nhận thức về vai trò của nghệ thuật âm nhạc đối với sự phát triển nhân cách văn hóa cho sinh viên, được biểu hiện ở ý thức về cái đúng (chân), cái tốt (thiện), cái đẹp (mỹ); trở thành xu hướng chủ đạo dẫn dắt sinh viên tới những hoạt động chủ động, tích cực, sáng tạo, tới những hành vi giao tiếp và ứng xử có văn hóa, với thái độ tôn trọng nhân cách, đạo lý làm người. Đây là một trong những mục tiêu hàng đầu của công cuộc đổi mới ở nước ta. Đảng khẳng định: “Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo” (3). Trước những yêu cầu đó, cần hướng mọi hoạt động nhằm giáo dục sinh viên có thế giới quan khoa học, hướng tới chân – thiện – mỹ. Gắn xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Phát huy tính đại chúng của âm nhạc trong việc xây dựng lối sống “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”; khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn. Đồng thời, đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu, góp phần tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh trong cuộc sống đời thường và trong thưởng thức nghệ thuật của sinh viên ở nước ta hiện nay.
______________
1, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.50, 49.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr.136.