(Tác giả: Tuấn Giang)
Âm nhạc là nghệ thuật thời gian không miêu tả, âm nhạc thiếu tính cụ thể như vật thể, hoặc đặc tính miêu tả văn học. Nhưng âm nhạc phác hoạ giai điệu, cấu trúc một chuỗi âm thanh tiết tấu theo nguyên tắc xây dựng hình tượng nghệ thuật.
Hình tượng âm nhạc sinh ra từ cảm xúc tư duy nhận thức hiện thực thế giới xung quanh, thể hiện vào giai điệu tác phẩm âm nhạc. Hình tượng âm nhạc biểu hiện trạng thái nội tâm con người, những quan niệm ước mơ khát vọng, buồn đau thất bại… Âm nhạc biểu hiện cảm xúc không cụ thể, nhưng không trừu tượng bởi những tình cảm từ âm thanh toả ra mang ánh sáng đời sống con người. Mỗi tác phẩm âm nhạc, cấu trúc theo loại thể, từ cảm xúc tư duy bộc lộ quan niệm diễn tả, cấu thành nội dung hình thức âm nhạc. Âm nhạc biểu hiện bằng giai điệu. Giai điệu khái niệm bao trùm, là phương tiện diễn tả cấu trúc tư duy con người. Giai điệu cấu trúc âm thanh tiết tấu hình thành một làn, điệu, bài bản dân ca, tác phẩm âm nhạc. Một số nhà nghiên cứu âm nhạc phân chia giai điệu (melody), còn tiết tấu (rythm) là hai hình thức độc lập. Tiết tấu tổ chức trường độ, giai điệu nối tiếp cao độ âm thanh. Theo cách phân lập một số nhà nghiên cứu âm nhạc, nhìn nhận riêng rẽ âm thanh, tiết tấu chỉ đúng khi là những khái niệm độc lập. Âm thanh sự nối tiếp các hàng âm từ thấp lên cao hoặc từ cao xuống thấp. Âm thanh độ vang của các âm… Tiết tấu sự sắp xếp cấu thành độ dài, ngắn của thời gian, nhưng hai hình thức âm thanh, tiết tấu không kết hợp lại sẽ chẳng có giai điệu âm nhạc. Giai điệu là sự kết hợp cấu trúc âm thanh tiết tấu, hình thành tác phẩm âm nhạc. Không có tiết tấu, chỉ sự tiếp nối âm thanh không phải giai điệu âm nhạc. Âm điệu, âm hưởng đặc điểm mang phong cách giai điệu âm nhạc, dù cấu trúc dưới hình thức nào âm nhạc luôn để lại ấn tượng ghi nhớ cảm xúc người nghe. Người nghe nhận diện phong cách âm nhạc qua âm điệu bản nhạc như nghe quen quen, đây là âm điệu dân ca quan họ, hát xoan, dân ca Nam Bộ, Nghệ Tĩnh…
Giai điệu âm nhạc cấu thành từ: âm thanh, tiết tấu, tạo thành hình tượng âm nhạc để lại ấn tượng âm điệu tình cảm dân ca các dân tộc. Giai điệu dân ca mỗi dân tộc biểu hiện ngôn ngữ âm thanh tiết tấu, hình tượng cảm xúc, âm điệu từng tộc người, mỗi vùng miền. Giai điệu cấu thành tác phẩm, diễn tả cảm xúc, tư duy con người thời đại.
1. Âm điệu, giai điệu dân ca.
Âm điệu là âm và điệu một bài dân ca. Nghe âm điệu nhận biết loại dân ca, điệu hát. Cổ nhân thường nói cung đàn, điệu đàn. Cung đàn là cung bậc âm thanh cấu trúc trong một bài đàn, hoặc cung bậc âm thanh một bài hát, làn hát, điệu hát. Từ những đặc điểm ấy, cổ nhân gọi cung đàn, điệu đàn, điệu hát.
Âm điệu, khái niệm kết hợp thành âm là âm thanh, điệu là tiết tấu nhịp điệu. Âm điệu biểu hiện đặc trưng một loại đàn, một giai điệu bài hát, làn hát, điệu hát dân ca. Dân gian còn thuật ngữ cung bậc. Cung và bậc là hai từ ghép cung quan hệ khoảng cách giữa các âm, bậc là bậc âm. Các bậc âm trong âm nhạc mang tên gọi đồ – bậc một, rề – bậc hai… Khoảng cách âm đô lên rê là bậc một, lên bậc hai theo cấu trúc âm tự nhiên, nếu xuất hiện dấu hoá sẽ biến hoá khôn lường. Nếu lấy bậc âm tự nhiên gọi tên các mối quan hệ cung bậc, cung khoảng cách, bậc các bậc âm. Cung bậc kết hợp tiết tấu cao độ, tạo thành âm điệu, giai điệu dân ca. Một số nhà nghiên cứu âm nhạc nước ngoài nói: âm nhạc phương Đông, nhạc ngũ cung, giai điệu mở đầu âm khu cao, sau đi xuống, hoặc ngược lại. Cấu trúc giai điệu âm nhạc các dân tộc phương Đông thường xoay quanh âm chủ, âm gốc, có thể đây là đặc trưng giai điệu dân ca?
Những nhận định ấy góp phần nghiên cứu giai điệu dân ca dân tộc Mông Tày Nùng Thái trên các mặt: cấu trúc hình tượng giai điệu, cấu trúc âm điệu hình tượng giai điệu, diễn tả cảm xúc thẩm mỹ.
* Cấu trúc âm điệu dân ca Mông Tày Nùng Thái.
Cấu trúc âm điệu dân ca các dân tộc phụ thuộc ngôn ngữ tiếng nói, ngôn ngữ âm nhạc, hình thành giai điệu từng loại dân ca. Mỗi dân tộc mang phong tục, ngôn ngữ, cư trú trên vùng không gian địa lý khác nhau ra đời các loại âm điệu dân ca. Âm điệu dân ca phản ánh trung thực bản chất hình tượng giai điệu từng loại dân ca mỗi tộc người.
Giao duyên Mông.
Những đặc điểm tự nhiên xã hội ra đời dân ca các dân tộc, gắn liền âm điệu từng thể loại. Dân ca Mông âm điệu các loại hát ru, đồng dao, giao duyên mo Mông âm điệu riêng. Dân ca Tày Nùng các loại hát ru, đồng dao… mang âm điệu phong cách dân ca Tày Nùng. Dân ca Thái mỗi thể loại một âm điệu riêng, nhưng xét về nguyên tắc phát triển giai điệu dân ca dân tộc phát triển quy luật chung lối tiến hành giai điệu, cấu trúc hình tượng âm nhạc gần giống nhau, hoặc giống nhau mỗi thể loại dân ca chung một hình thức tiến hành giai điệu, cấu trúc âm thanh phát triển làn điệu dân ca. Hình thức tiến hành giai điệu bài Nhớ em yêu – dân ca Mông. Giai điệu trên thang 5 âm: rề pha son la đô rế. Nét mở đầu vào âm cao nhất các hàng âm giai điệu:
Sau đi xuống, đi lên liền bậc, bất ngờ nhảy xuống quãng 8 nhảy lên quãng ba, đi lên liền bậc. Nét giai điệu mở đầu vào ngay âm gốc thang âm, phát triển bằng các âm quanh âm gốc bậc ba, bậc bốn, bậc năm là những âm chính trên thang âm. Bài dân ca Mông loại tự sự trữ tình trong hình thức giao duyên, tiến hành giai điệu mở đầu âm cao nhất, đi xuống thấp nhất, sau phát triển quanh âm gốc đi lên, kết bằng âm gốc như mở đầu. Hình thức phát triển giai điệu thứ nhất mở đầu âm khu cao, kết thúc âm khu cao, cấu thành âm điệu đặc trưng: rề đô rề rề, pha son lá đô rế. Đây là một phác hoạ âm điệu loại giao duyên Mông.
Loại thứ hai, bài Dừng chân.
Mở đầu âm khu thấp: rề rề mi rề, đi lên mì la la rề, nhảy quãng 5 đi xuống thấp nhất là phát triển giai điệu quanh âm gốc trên thang 4 âm: Rề mì son la ré. Phần kết, giai điệu đi xuống âm gốc như mở đầu nét giai điệu. Qua hình thức phát triển giai điệu bài Dừng chân, mở đầu:
Kết thúc:
Những bước phát triển giai điệu trên cấu thành âm điệu loại thang 4 âm: Rề rề mì lá rề si là. Nghe những âm vang này phảng phất âm điệu bài Nhớ em yêu trong hệ âm điệu dân ca Mông.
Loại thứ ba, bài Lòng em.
Giai điệu mở đầu bằng âm bậc trung:
Hình thức phát triển giai điệu từ âm trung, âm gốc trên thang năm âm: Sòn là sib đô re son. Nét giai điệu xoay quanh những âm cơ bản âm bốn, âm năm, âm gốc, kết về âm trung bậc hai trên thang âm.
Qua ba hình thức phát triển giai điệu của hàng chục bài hát giao duyên Mông thường mở đầu giai điệu:
– Mở bằng âm gốc thấp đến cao.
– Mở âm bậc trung.
– Mở bằng âm thấp.
Hình thức phát triển giai điệu chung giống nhau, xoay quanh âm gốc quan hệ phần âm gốc, những âm chính thang âm. Riêng phần kết:
– Kết âm gốc cao, hoặc âm gốc thấp.
– Kết âm trung không về âm gốc.
– Kết âm thấp không về âm gốc.
Dù hình thức tiến hành giai điệu, mở đầu, kết thúc khác nhau nhưng hình thức hát giao duyên Mông cấu trúc âm điệu chung phổ biến mang phong cách dân ca Mông, hoặc pha một chút những làn điệu dân ca gần dân tộc khác. Loại hát ru Mông có ba hình thức phát triển giai điệu, cấu trúc ba loại âm điệu khác nhau mang đặc tính chung bản sắc phong cách. Dân ca Mông không lẫn với dân ca các dân tộc khác, dù có những điệu ảnh hưởng Tầy Nùng Thái nhưng chất Mông là bản sắc âm điệu dân ca bản địa.
Hát giao duyên Tày Nùng.
Đặc điểm không gian địa lý, xã hội Tày Nùng người dân cư trú trên nhiều miền đất bằng phẳng, về cơ bản họ là dân miền rừng núi nhưng nhiều nét gần với không gian người Việt. Những đặc điểm tự nhiên xã hội, lối sống phong tục… đôi khi cộng cư cùng người Việt trên nhiều vùng đất, nên dân ca Tày Nùng nhiều làn điệu âm nhạc trữ tình, phóng khoáng nhẹ nhàng, giai điệu ít đột biến.
Âm nhạc Tày Nùng, nhiều làn điệu cấu trúc giai điệu đều đều, âm trung như hát giao duyên… Bài Lượn cọi, giai điệu mở đầu âm khu cao nhất: rê phà rê la, la son phà son pha rề rề phá rê đồ là. Mở đầu âm khu cao, đi xuống âm thấp nhất, kết âm thấp nhất. Bài Lượn cọi vào đầu bằng âm cao bậc IV trên thang âm: là đô rê pha son lá. Nét giai điệu xoay quanh các âm cơ bản bậc sáu, bậc ba về âm gốc. Phần kết: la đố la son pha rề rề phá rề đô là, lặp lại âm hình kết hết một câu nhạc mở đầu. Bài Lượn cọi, dân ca Tày:
– Mở âm khu cao nhất.
– Kết về âm gốc thấp nhất.
Bài Điệu lứn dân ca Nùng, giai điệu mở đầu âm trung: si son si la son mì la. Từ âm si đi xuống âm thấp nhất mì nhảy lên âm gốc la. Nét giai điệu xoay quanh âm gốc, khởi từ âm bậc II (si) xuống son bậc VII, lên si xuống âm gốc đi xuống âm mì bậc V, nhảy lên âm gốc la, tạo thành âm điệu dân ca Nùng: Là si mi son lá. Phần kết tiết nhạc: son lá mì son mì la si la. Kết xoay quanh âm chính la mì về âm gốc la bậc trung. Bài Điệu lứn, phát triển giai điệu mở đầu, kết:
– Âm bậc trung.
– Âm gốc bậc trung.
Bài Sli Nùng lòi, nét nhạc mở đầu âm gốc thấp nhất toàn bài, đi lên bậc V, đi xuống kết câu âm gốc rề trên thang âm: rề pha son la rế. Giai điệu mở đầu , âm đầu thấp : rề rề pha pha lá… Những âm cấu thành giai điệu xoay quanh âm gốc, âm ba, âm năm, nét giai điệu bình ổn trữ tình. Phần kết, pha rề la lá pha rè. Tiết nhạc kết câu về âm ba, lên âm năm xuống âm gốc thấp nhất, lặp lại âm mở đầu. Bài Sli nùng lòi, phát triển giai điệu mở đầu, kết thúc:
– Âm thấp nhất, âm gốc.
– Kết âm gốc thấp nhất.
Qua bài giao duyên, hình thức phát triển giai điệu chung hát giao duyên Tày Nùng giống nhau, dù mỗi bài một hình thức, phương pháp cấu trúc phát triển giai điệu độc đáo nhưng theo quy luật chung mở đầu:
– Âm cao.
– Âm trung.
– Âm thấp.
Kết thúc các bài dân ca, giao duyên:
– Âm gốc cao nhất.
– Âm gốc bậc trung.
– Âm gốc thấp nhất.
Tuy nhiên, không loại trừ có bài cá biệt kết không về âm gốc nhưng ít xuất hiện trong dân ca các dân tộc.
Giao duyên Thái ra đời từ không gian địa lý đồng bào cư trú bên những dòng suối, dưới thung lũng đẹp như cánh đồng Mường Lò, Mường Thang, bên sông Nậm Rốm… Điều kiện tự nhiên thơ mộng, gợi mở chất âm nhạc trữ tình, rộn ràng trong sáng. Giao duyên Thái, phong phú nội dung hình thức, lời ca mộc mạc hình ảnh như cách diễn đạt của đồng bào.
Dân ca Thái phát triển suốt rải sông Đà từ Điện Biên, Sơn La, đến nhiều tỉnh miền núi phía Bắc: sông Mã, Nghệ Tĩnh… Nhiều nơi hội tụ các loại thể dân ca phong phú, Điện Biên, Sơn La, Hoà Bình, Thanh Hoá… Nhiều nơi còn lưu truyền tập tục Thái, những kho truyện thơ văn cổ, các hình thức dân ca, huyền thoại truyền thuyết. Tình Hoà Bình là cái vốn của dân ca Thái, ra đời từ các tỉnh miền núi phía thượng nguồn những con sông đến Mai Châu hội tụ nhiều hình thức văn học, dân ca Thái. Hoà Bình, Mường Mùn dưới thung lũng đẹp Mai Châu còn lưu giữ nhiều bài tủa, như Dặn người yêu, Gieo vừng gieo kè, Nhớ Mường… giao duyên Thái như tiếng hát tình yêu các dân tộc, quy luật phát triển giai điệu theo những nguyên tắc cấu trúc âm thanh tiết tấu mang nội dung tình cảm, thể hiện tình yêu tuổi trẻ. Tiếng hát giao duyên Thái không dừng lại ngợi ca cô gái đẹp, trai tài, những mối tình nồng thắm thuỷ trung. Tiếng hát nhắn nhủ bao điều, ngợi ca quê hương, mường bản đẹp tươi, tình yêu và trách mỗi người sống vì sự trường tồn tộc loại. Những bài giao duyên Thái, gợi lên hình ảnh thiên nhiên gần với cảm nhận trực quan con người. Bài Lăm, lời ca:
Bông hoa tươi sáng
Trăng đẹp sáng soi
Ánh lên mấy lời
Vui câu ca…
Giai điệu mở đầu âm khu cao nhất: Si si si la son si la son… lần lượt đi xuống quanh âm gốc, kết câu một, xuống âm gốc thấp. Âm thấp nhất toàn bài là âm rề, phần kết nét giai điệu câu kết bài từ âm gốc cao nhất si, đi xuống âm gốc mì trên thang âm: Mì son la si rê mí. Bài Lăm hình thức tiến hành giai điệu âm hình mở đầu, âm cao nhất đi xuống, kết âm gốc thấp. Giai điệu toàn bài dựa vào âm chính: âm một, âm năm, âm bốn, kết về âm gốc. Bài Lăm, mở đầu, kết thúc:
– Âm cao nhất (bậc V).
– Âm thấp (âm gốc).
Bài Cô gái đẹp, giai điệu mở đầu âm trung (âm gốc) đi xuống kết câu một âm cao nhất. Phần kết bài âm trung (âm gốc), đi xuống kết câu một âm cao nhất. Phần kết bài âm trung (âm gốc), lặp lại âm hình mở đầu. Câu kết đi lên, đi xuống âm gốc trên thang âm: Là đô mi son lá. Bài Cô gái đẹp (Nắng xao nhiểm), mở đầu, kết thúc giai điệu:
– Âm trung âm gốc.
– Âm trung âm gốc.
Bài Xoè hoa, mở đầu giai điệu âm thấp nhất toàn bài, phát triển đi lên, kết câu thứ nhất, câu hai kết bài âm trung (âm gốc). Bài Xoè hoa, mở đầu, kết thúc theo nguyên tắc:
– Âm thấp nhất (âm năm).
– Âm trung âm gốc.
Bài Xoè hoa, kết thúc giai điệu toàn bài đi xuống, đột biến nhảy quãng bốn lên âm gốc, một sự phong phú biến hoá dân ca Thái.
Giai điệu dân ca Thái, phát triển nhiều hình thức, có phần cá biệt đôi câu kết, nhưng quy luật chung:
Mở đầu: Âm cao nhất (âm năm hoặc âm gốc).
Âm bậc trung (âm gốc).
Kết bài: Âm thấp nhất (âm gốc).
Âm trung (âm gốc).
Âm cao (âm gốc).
Dân ca Thái, phát triển giai điệu phong phú các hình thức kết câu, kết đoạn, kết bài như hai phần tạo âm điệu ấn tượng toàn bài dân ca, mở đầu, kết thúc thường nằm trong quy luật phát triển dân ca các dân tộc.
Hát mo then.
Hát mo then, hình thức âm nhạc tiền nhân loại, chỉ có thể sinh sau loại hát xướng khi thành lệ thức, còn khởi thuỷ nó là khởi xướng cho một hình thức âm nhạc. Hát mo then là âm nhạc bởi những hình thức hát nói xuất hiện trong mo then rất sớm, nhưng chỉ là một giả thuyết nghệ thuật thời nguyên thuỷ.
Nghệ thuật xã hội nguyên thuỷ xuất hiện thời đại đồ đá mới, rực rỡ hậu kỳ đồ đá cũ. Nghệ thuật hang dộng để lại nhiều tranh vẽ mầu sắc, trạm khắc, tượng đá… biểu hiện ký ức thị giác tổng hợp, tái hiện đời sống, hái lượm, săn thú rừng mang tâm lý bắt chước ngây ngô trên nét vẽ tạo hình hồn nhiên. Nền nghệ thuật ấy, đến nay còn tiếp tục khám phá, đề xướng nhiều thuyết nguồn gốc ra đời chưa thể khẳng định. Sau đổi mới tiếp cận hệ thông tin mở, các nhà nghiên cứu đưa ra sáu thuyết nguồn gốc nghệ thuật để tham khảo nghiên cứu thực tiễn nghệ thuật thời nguyên thuỷ.
Thuyết thứ nhất, nghệ thuật là “bắt chước”, do Aristone khởi xướng 384 – 322 trước công nguyên. theo ông nghệ thuật do con người sáng tạo bằng sự bắt chước thế giới khách quan. Trang 13 cuốn Nghệ thuật thơ ca, Nhà xuất bản Văn hoá Nghệ thuật năm 1964, giá 70 xu, Aristone viết: “Sử thi, bi kịch cũng như hài kịch, thơ ca, đại bộ phận nói chung là những nghệ thuật bắt chước”. Theo nghĩa rộng ông nói sự bắt chước của nghệ thuật là lấy thế giới tự nhiên làm đối tượng bắt chước, tái tạo lại các hiện tượng tự nhiên xã hội. Thuyết này của Aristone chỉ đúng về cảm nhận khách quan các hiện tượng tự nhiên mà nghệ thuật phản ánh, biểu hiện qua cảm xúc. Đây là học thuyết sơ khai về nguồn gốc nghệ thuật. Tính bắt chước thời đại ông còn thô sơ, nghệ thuật mang tính mô tả hiện thực.
Thuyết thứ hai, nghệ thuật ra đời từ trò du hý do sự hứng khởi của con người nghĩ ra những trò chơi, bởi thời gian giải trí dư thừa. Thuyết này, do Kants Chiller Marop đề xướng, phổ biến rộng vào những năm đầu thế kỷ XX. Những năm ấy, ở nước ta chưa cho phép phổ cập thuyết này, chỉ nghe báo cáo nội bộ. Thuyết du hý nhiều nhà văn lớn hưởng ứng.
Nguyễn Du quan niệm thơ văn, nghệ thuật là mua vui, du hý, làm phong phú tâm hồn con người, tâm sự cùng công chúng. Nhà nghệ thuật học Robert Fros nói: “văn học là trò diễn ngôn ngữ, trong văn học có yếu tố mua vui”. Thuyết này nhìn vào giá trị nghệ thuật xảy ra các hiện tượng mê hoặc người xem, người đọc hào hứng quên những vất vả bức xúc đời thường, thậm chí âm nhạc giúp người ta giải trí trực tiếp tại chỗ. Nghệ thuật là du hý mua vui, biểu hiện qua hiện tượng chưa nhìn thấy bản chất mỹ học nghệ thuật.
Thuyết thứ ba, nghệ thuật từ ma thuật, mang tính tôn giáo. Những người khởi xướng: Eduard Bunettylor, Glorge Frazet, T.rozak 1914, quan niệm trước khi xuất hiện công cụ lao động có ma thuật, từ những điệu hát múa… xúc cảm thể hiện tâm linh con người như tiền định. Họ cho rằng từ tôn giáo ra đời cac loại hình nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, ca múa nhạc… Thuyết này, là một phát hiện nhiều người hưởng ứng, thực chất những người theo thuyết này chỉ phát hiện ra cảnh nghi lễ biểu tượng tôn giáo, nghi thức nghi lễ, còn nghệ thuật ra đời trước những khái niệm nghi lễ.
Thuyết thứ tư, “biểu hiện”. Theo nhiều nhà văn khoảng những năm đầu thế kỷ XX, cho rằng khi viết những nỗi đời vào trang sách để mọi người hưởng thụ là bày tỏ tâm sự. Nghệ thuật ra đời từ cảm xúc muốn biểu hiện mình, để mọi người tách rời những trải nghiệm đời sống, cuốn hút họ vào niềm đam mê giải trí. Những thuyết ma thuật là biểu hiện của nghệ thuật trò chơi du hý. Họ phát hiện ra nhiều đặc tính riêng nghệ thuật và người nghệ sĩ, là con người muốn vươn tới những đỉnh cao trí tuệ, tình cảm khát vọng cái đẹp.
Thuyết thứ năm, “tổng sinh lực, sinh lực thừa”.
Một nhóm người biên soạn sách giáo khoa cho là học thuyết riêng khởi xướng “của bộ môn nghệ thuật học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội đề xuất” (trích trang 8), sách do Trường Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản. Theo nhóm biên doạn, thuyết tổng sinh lực và sinh lực thừa, là thuyết lý giải nguồn gốc nghệ thuật một cách khoa học nhất, đầy đủ nhất. Thuyết này, tiếp thu tất cả các thuyết trước đây, nhưng đã đưa các thuyết đó vào hệ thống của mình để làm nổi bật nguồn gốc nghệ thuật là con người khi đạt tới một trình độ sáng tạo trong lao động bền bỉ đến mức làm ra sinh lực thừa, một nguồn sinh lực trên mức đáp ứng nhu cầu sống sinh học, nẩy sinh nhu cầu sống thẩm mỹ (sống đẹp), khi đó nghệ thuật từ cái thực dụng bước ra, tạo nên một hiện tượng độc đáo chỉ riêng loài người mới có”. Đoạn trích trên, thuyết tổng sinh lực và sinh lực thừa, công nhận các thuyết nêu ra là đúng nằm trong hệ thống của họ. Học thuyết nhóm biên soạn trường Đại học quốc gia Hà Nội khởi xướng gồm bốn thuyết hợp thành thuyết tổng sinh lực và sinh lực thừa, là thuyết thứ năm. Một lý thuyết nêu ra quá nhiều hệ thống tổng hợp các thuyết, không biết dựa vào hệ thống nào mới hoàn hảo. Theo tuyên ngôn nhóm biên soạn “Thuyết tổng sinh lực và sinh lực thừa”, là bộ môn Nghệ thuật Trường đại học quốc gia Hà Nội đề xuất”. Nghiên cứu các thuyết nguồn gốc nghệ thuật thời nguyên thuỷ, thuyết “tổng sinh lực và sinh lựa thừa”, xuất hiện vào những năm 1860 do Snecer đề xướng, phát triển tiếp quan niệm nghệ thuật là trò chơi du hý của Kazrt, Schiller… lý luận về sinh lực thừa. Những nhà khởi xướng thuyết tổng sinh lực và sinh lực thừa cho rằng: Khi con người đủ nhu cầu ăn ở, họ chuyển sang hoạt động sáng tạo cao hơn, nẩy sinh hoạt động nghệ thuật. Nguồn gốc nghệ thuật là sự phát triển sinh lực thừa, thời gian rỗi đẽo gọt tượng, vòng đá, bày trò chơi, là bản chất nguồn gốc nghệ thuật từ trò chơi ở trình độ cao.
Thuyết thứ sáu, nghệ thuật ra đời từ lao động, là thuyết truyền thống theo quan niệm Marx phổ biến ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ. Thuyết này, phân tích lao động là quá trình biến đổi con người từ vượn thành người, phát triển ngôn ngữ giao tiếp. Lao động tạo nhịp điệu, tiết tấu, theo Bucher, Lỗ Tấn, tiếng dô ta, làm nảy sinh những điệu hò, ra đời ngôn ngữ âm nhạc, những làn điệu dân ca, khẳng định lao động tồn tại cùng các hoạt động văn hoá nghệ thuật. Thuyết này, phát hiện mối quan hệ cùng tồn tại lao động và nghệ thuật. Lao động sáng tạo sản phẩm vật chất tinh thần, nhưng không thể cho rằng nghệ thuật ra đời từ lao động. Những người lao động chỉ là lao động sản xuất của cải vật chất xã hội, những phương thức cải tiến kỹ thuật, quan hệ sản xuất thuộc về nhóm người đặc biệt. Nhóm người đặc biệt ấy xuất hiện trong mọi thời đại. Ngay thời nguyên thuỷ, họ là lớp người không đơn giản lao động chân tay săn bắn, hái lượm thoả mãn sự sống. Nhóm người ấy, luôn nghĩ đến cải tiến công cụ, phát sinh sáng kiến phương thức lao động hiệu quả, những người khác nghĩ cách mô tả lại hiện thực cuộc sống bằng kể chuyện nhảy múa ca hát…
Những nhóm người ấy, ngày nay là kỹ sư, bác học, nhà văn, nhạc sĩ, biên đạo múa… Thời nguyên thuỷ, họ lẫn vào bầy người lao động giản đơn săn bắn, hái lượm kiếm sống nhưng luôn hướng tới những thú vui, biểu hiện mình trước đám đông. Nhóm người ấy trong cộng đồng người nguyên thuỷ họ hoạt động tồn tại giống như nghệ thuật folklore, nguyên hợp hỗn đồng phi lịch sử, chưa tách khỏi nghệ thuật và mục đích đời sống. Vào những thời đại phát triển xã hội, nhóm người đặc biệt dần tách ra thành những người hoạt động sáng tạo riêng từng chuyên ngành của họ, thiếu không có nền văn hoá nghệ thuật, văn minh nhân loại. Dựa vào thực tiễn hoạt động nghệ thuật, tôi đề xướng thuyết thứ bảy.
Dù nhìn nhận dưới góc độ nào, các thuyết nguồn gốc nghệ thuật lấy mốc lao động sản xuất, nghệ thuật nguyên thuỷ chiếu sáng những nhận định khách quan hoạt động nghệ thuật. Lao động sản xuất xã hội nguyên thuỷ, diễn biến khả năng:
– Lao động sản xuất phát triển xã hội.
– Biểu hiện mình trong nhóm người đặc biệt.
Khả năng lao động nâng cao nhận thức cải tạo tự nhiên, xây dựng xã hội loài người, tạo ra ý thức hệ xã hội. Lao động phát triển con người xã hội không thể phủ nhận. Những thành quả lao động tự thân nó mang tính biểu hiện, ở các cấp độ xã hội là những cái đẹp. Người nguyên thuỷ, biểu hiện cái đẹp đẽo gọt ríu đá, vòng đá, tranh tượng, những đường cong, hình khối… Thời đại công nghiệp, công nghệ, chế tác kim cương, hệ điều hành máy chủ, nghệ thuật tổng hợp tư duy đa tầng, đa phương tiện biểu hiện ký hiệu thông tin, vì nhu cầu con người. Những thành quả nghệ thuật ấy thuộc về những nhóm người đặc biệt, sản xuất ra nền văn hoá tinh thần. Thời nguyên thuỷ họ là người có khả năng tự biểu hiện mình, hoạt động vì cái đẹp cộng đồng xã hội. Nhóm người đặc biệt ấy, là những người có năng khiếu nghệ thuật, văn học, hội hoạ, khoa học… Họ là nguồn gốc ra đời sự phát triển nghệ thuật. Thuyết thứ bẩy dựa vào những nhóm người đặc biệt: sáng tạo, hoạt động nghệ thuật từ xã hội nguyên thuỷ di truyền đến ngày nay. Những nhóm người ấy, chủ nhân mọi giá trị đời sống văn hoá tinh thần nhân loại, số đông hàng triệu triệu người lao động giản đơn không thể rực sáng nhất thế kỷ như Leonardo da Vinci, Newton, Beethoven[,Stravinsky, Picasso, Michel Jackson… Nghệ thuật và các hoạt động thượng tầng trí tuệ thuộc về nhóm người thiên tài, chuyên nghiệp sáng tạo ra nền văn minh nhân loại ở mọi thời đại.
Nhìn lại nguồn gốc ra đời làn điệu dân ca các dân tộc, hoặc vốn dân ca nhân loại, nhiều bài hát ghi lại những hiện tượng lao động cụ thể. Nghiên cứu dân ca Việt Nam, dân ca người Việt, dân ca Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh, Quảng Bình, Nam Bộ, Bắc Bộ… các vùng miền dân ca các dân tộc, xuất hiện nhiều loại hò, Quay tơ, hò Kéo chài, Hội cấy… nói về công việc lao động nhưng không có nghĩa nghệ thuật ra đời từ lao động, mà lao động tác động ảnh hưởng dưới dạng cảm xúc những bài dân ca ghi lại công việc tạo niềm vui, tiếng hát hưng phấn trong quá trình chèo đò, đi cấy… Nghệ thuật ra đời từ những khả năng ý thức lao động trí tuệ, một hình thức lao động đặc biệt, sáng tác ra các mẫu nghệ thuật như bài ca, điệu múa, kịch, văn học, làm đẹp cuộc sống con người hướng thiện.
Những làn điệu dân ca các dân tộc ra đời từ sự phát triển ý thức muốn biểu hiện tình yêu, biểu hiện tâm linh ngưỡng mộ cầu mong cuộc sống tốt đẹp. Hát mo then, là hình thức âm nhạc đầu tiên, ý thức con người về cuộc sống. Hát mo then các dân tộc, là tiền âm nhạc biểu hiện tín nguỡng các dân tộc thời xã hội nguyên thuỷ, hay thị tộc, bộ lạc. Họ quan niệm vạn vật đa thần. Ý thức ban đầu chưa có nghi lễ, chỉ thờ cúng theo đức tin, mấy câu khấn vái râm ran, miệng lẩm bẩm không nghe rõ nói gì. Những lời cầu khẩn ấy, là loại hát nói trong âm nhạc, nói có tiết tấu, đây là bản chất đầu tiên ra đời từ ý thức biểu hiện lòng thành kính với đấng thiêng, vật thiêng. Sau quá trình nhiều thế kỷ, tiến lên nghi lễ, nghi thức mo then của dân tộc, theo luật tục tế thần có nhạc dạo, hát múa, độc diễn, hình thành diễn xướng dân gian trong tín ngưỡng mo then. Từ đó, ra đời những bài mo, bài hát then theo nghi thức mo then trình làng, mô tả lại câu chuyện mo then. Nội dung nghi lễ khác nhau nhưng nội dung hát mo then nhiều nét gần nhau như những bài hát Đi đường, kể chuyện giã sử, những bài then, cầu chúc, tiến quân, dâng lễ, mừng công… Hệ thống hát mo then, phản ánh cảm xúc tâm trạng con người như cuộc hành trình sống, ghi lại những trang sử quá trình phát triển quê hương, mường bản, xã hội các dân tộc. Những bài hát ấy, phát triển cấu trúc giai điệu theo nội dung, tiến hành âm thanh, nhịp điệu các loại thể mo then.
Loại phát triển giai điệu mo Mông.
Những bài hát mo Mông phong phú, chỉ khảo sát quy luật duy nhất qua nghiên cứu, phân tích hàng chục bài để lấy ra ba loại bài có quy luật phát triển giai điệu. Bài Mời ma, cấu trúc giai điệu theo lời ca:
Ta mời mày ăn uống
Ta để vào mẹt mày không ăn
Để vào cót
Là cho người chết
Mày ăn đi
Người ra dắt mày lên trời
Dắt mày xuống đất
Mày phải ăn uống
Mà đi…
Giai điệu tự sự thể hát nói, nhịp tự do, giai điệu mở đầu âm trung đi lên la la rê, kết âm cao – âm ba trên thang âm: rề pha son la đô rế. Âm điệu phát triển xoay quanh âm gốc bằng âm tựa ba năm đi lên, đi xuống liền bậc. Phần kết bài, giai điệu đi xuống âm gốc. Bài mời ma:
Mở đầu: âm trung.
Kết bài: âm cao (âm gốc)
Bài Gọi vía, giai điệu mở đầu âm cao. Nét giai điệu đứt quãng liên tiếp các bước nhảy như lời gọi vía tự sự. Câu đầu vào âm khu cao, âm năm trên thang âm: son la si rê mi són. Giai điệu xoay quanh âm gốc bằng các bậc năm, ba, sáu, kết âm bậc hai, âm la. Phần kết bài giai điệu đi xuống âm gốc: son la son, kết âm thấp nhất. Bài Gọi vía:
– Mở đầu: âm cao.
– Kết bài: âm thấp.
Bài Văn tế, lời ca bày tỏ thắc mắc trong lòng người, xin tế hồn mong sao mọi điều cầu phúc an lành:
Mọi năm không có chuyện lạ
Năm nay chim chóc nhiều
Về đẻ trứng trên cây sua
Sao vợ chồng anh không về
Sao vợ chồng lại chia của…
Nét giai điệu mở đầu âm gốc son đi xuống, nhảy lên đứt quãng như lời đọc xúc động lên âm cao nhất nhảy xuống quãng son kết câu âm gốc son. Phần kết bài, giai điệu đi xuống bất ngờ lên quãng bốn la rề, nhảy xuống quãng năm rề son, kết âm gốc trên thang trung. Bài Văn tế:
– Mở đầu: âm trung (âm gốc)
– Kết bài: âm trung (âm gốc)
Bài Tiễn hồn, giai điệu mở đầu âm cao nhất: mí đồ rê, nét nhạc đi lên xoay quanh âm gốc âm đô, kết câu đầu âm gốc. Phần kết bài, giai điệu đi xuống liền bậc, kết toàn bài về âm gốc đô, trên thang âm: Đồ rề mi la đố. Bài Tiến hồn:
Mở đầu: âm ba cao nhất, nét giai điệu toàn bài.
Kết bài: âm trung âm gốc.
Qua bốn bài mo Mông, quy luật phát triển giai điệu, nét mở đầu âm cao, âm trung, kết bài âm cao, âm trung hoặc âm thấp. Mở bài, vào bằng nhiều âm khác nhau trong hệ thống âm điệu thang âm, kết bài hầu hết âm gốc của thang âm điệu thức. Những bài mo Mông, phong phú âm điệu giai điệu, loại làn hát nói, loại nhịp điệu, nội dung gợi hỏi, kể chuyện, cầu chúc mong ước điều lành đến mọi người mường bản, cây trồng vật nuôi, được mùa vui ấm bản Mông.
Then Tày Nùng.
Then Tày, những điệu hát hay, nội dung là một quá trình nghi lễ then dù nhiều loại then khác nhau, nhiều bài hát khác nhau theo quy luật nghi lễ then. Hát then Tày Nùng trình diễn trong nghi thức quy phạm bài bản, những bài then độc diễn hát múa, nhạc những bài then phản ánh tâm trạng con người nguyện ước cuộc sống tốt đẹp.
Bài Then Cáo lão, Nông Thị Nhình sưu tầm, ghi âm Mông Lợi Chung, mở đầu giai điệu âm trung bậc ba – âm pha đi liền bậc ba nhịp âm pha, sau đi xuống âm thấp nhất si, nhảy lên âm kết rê, âm gốc. Kết câu một, giai điệu xoay quanh âm gốc, mở đầu âm ba xuống âm sáu lên âm gốc, tạo thành âm điệu thang âm: rề mì pha la si rế. Phần kết toàn bài, nét giai điệu đi xuống bậc năm – là , bất ngờ nhảy lên kết âm gốc rê. Bài Then Cáo lão:
– Mở đầu, giai điệu bậc ba, âm trung.
– Kết bài âm gốc, âm thấp.
Giai điệu mở đầu, âm trung nhảy lên, đi xuống liền bậc kết câu đầu âm ba. Phát triển giai điệu xoay quanh âm gốc bằng các bậc năm, ba về âm bốn, ba trên âm điệu thang âm: Mì son la si rê mí. Bài Then cầu an:
Mở đầu: âm trung bậc năm.
Kết bài: âm trung bậc ba.
Bài Then sinh nhật, dân ca Nùng, Nông Thị Nhình sưu tầm, biên dịch. Giai điệu mở đầu âm trung, giai điệu đi lên quãng ba, đi xuống quãng hai, kết câu một, âm gốc son. Phần kết bài, giai điệu đi xuống bất ngờ nhảy lên bậc ba, kết âm gốc âm son, âm thấp, thêm tiếng ngắt âm. Đây là âm sắc độc đáo dân ca Tày Nùng, âm tắc ngắn nên kết âm thấp. Bài Then sinh nhật trên thang âm: Son la si rê mi son. Phát triển giai điệu:
Mở đầu: âm trung.
Kết bài: âm thấp.
Bài Điếu, giai điệu mở đầu âm thấp, đi lên, đi xuống liền bậc, kết câu một, âm gốc. Mở đầu âm năm, xoay quanh âm gốc trên âm điệu thang âm: Là đô rê mi xon lá. Phần kết toàn bài, giai điệu đi lên, đi xuống nhiều âm liền bậc, bất ngờ nhảy xuống quãng ba, về âm gốc âm ba. Kết bài, âm trung. Bài Điếu đọc trong đám tang:
Mở đầu: âm thấp (âm năm).
Kết bài: âm trung (âm gốc).
Bài Điếu, đọc trong đám tang ma, giai điệu nhiều luyến láy như tiếng khóc chia lìa, lời ca:
Nàng ơi! linh thiêng là rinh
Lời cầu noọng thảm thiết
Ơi! lắm thôi là vong anh
Từ vằn sơ quỷ lưởng nả
Cạ đuổi hồn vong anh…
Có thể những bản mo then Tày Nùng còn chưa sưu tầm đầy đủ, qua nghiên cứu hơn chục bài hát, tổng kết thường có hai loại phác hoạ giai điệu mở đầu kết thúc. Nhiều bai mở bằng âm trung, kết âm trung. Một số bài mở âm thấp, kết âm thấp. Lối phác hoạ giai điệu này, chưa phong phú ở những phần kết câu như những loại làn điệu âm nhạc khác. Qua nghiên cứu mo then các dân tộc Mông Tày Nùng, còn thiếu nhiều bài mo then chưa có nhạc, xin tạm dừng lại phần mo then Tày Nùng. Những bước phác thảo giai điệu dân ca Mông Tày Nùng Thái, hai thể loại hát giao duyên, mo then, có thể rút ra một số quy luật cấu trúc, âm điệu, giai điệu, thể loại.
Loại hát giao duyên các dân tộc, quy luật chung nét giai điệu mở đầu bằng âm cao, đi xuống liền bậc quanh âm gốc. Loại hai, mở đầu bằng âm bậc trung, đi lên quanh âm gốc. Loại ba, mở đầu âm thấp đi lên, kết câu về âm gốc hoặc âm khác trong âm điệu chính thang âm.
Loại thứ nhất, phần kết, giai điệu đi xuống, hoặc đi lên âm trung.
Loại hai, kết, giai điệu kết đi lên âm cao.
Loại ba, kết bài, giai điệu đi xuống âm thấp.
Mỗi dân tộc có các loại hát giao duyên khác nhau, khác nhau thang âm, điệu thức, giai điệu tiết tấu, âm điệu dân ca… Nhưng quy luật chung phác hoạ giai điệu:
– Cấu trúc âm điệu từ âm gốc đến các âm cơ bản.
– Các âm phát triển đi lên, đi xuống quanh âm gốc.
– Thường phát triển từ âm thấp lên âm cao, hoặc về âm gốc.
Tuy nhiên, cá biệt một số bài giai điệu không kết về âm gốc nhưng dừng ở những âm tựa chính của âm điệu trên thang âm. Cấu trúc âm điệu những bài hát giao duyên các dân tộc nhiều loại thang âm, phát triển nhịp điệu, tiết tấu riêng nhưng quy luật chung tạo các quãng đặc trưng trên âm điệu dân ca các loại thể. Đặc trưng giao duyên Mông, âm điệu chính gốc, nghe nhận they ngay là: rề rề la đô rế trên các âm điệu: Rề pha son la đô rế hoặc rề mi son la đô (si) rế…
Thang âm, âm điệu đặc trưng hát giao duyên Tày Nùng: La sí mì son sí, trên các thang âm: Lá si mi son lá, hoặc rề pha son la rế… Những mối quan hệ liên kết quãng giữa các âm tạo thành âm điệu dân ca Tày Nùng, Mông Thái riêng. Là nguyên tắc phát triển giai điệu, các âm cơ bản xoay quanh trục thang âm gốc tạo ra âm điệu đặc trưng dân ca các dân tộc. Đây là đặc trưng trên giai điệu dân ca từng dân tộc, là phong cách, âm điệu bản sắc dân ca mỗi vùng miền, loại thể.
Hát mo then Mông Tày Nùng Thái, qua nghiên cứu cấu trúc giai điệu mo Mông thường thấy mở đầu, kết thúc hoặc trùng lặp nhưng khác với hát giao duyên.
Mở đầu: âm cao, âm thấp.
Kết bài: âm cao, âm thấp.
Những bài hát giao duyên Mông Tày Nùng Thái, quy luật chung phong phú hơn:
Mở đầu: âm cao, trung, âm thấp.
Kết bài: âm thấp, trung, âm cao.
Những quy luật cấu trúc giai điệu mở đầu, kết thúc khác nhau giữa hát giao duyên với mo then, mang đến một đặc trưng mỗi thể loại bài hát dân ca các dân tộc. Mỗi thể loại mang quy luật chung và những đặc tính riêng. Có thể hát mo then các dân tộc, loại hát nghi lễ, giai điệu tôn nghiêm, sầu thảm, bi thương lối kết cấu nghiêm khắc không phong phú phóng khoáng. Hát giao duyên, loại tình yêu trai gái mở rộng tính biến hoá, giai điệu mở, kết phong phú, tự do, phóng khoáng. Tuy khác nhau nhiều nhưng quy luật cấu trúc giai điệu chung, âm điệu mở đầu xoay quanh âm cơ bản về âm gốc. Kết thường âm gốc, cá biệt một số làn điệu kết âm khác, cấu trúc giai điệu tạo âm đặc trưng làn điệu, loại thể dân ca các tộc người.
2. Mô hình âm điệu làn điệu dân ca các dân tộc.
Âm điệu làn điệu dân ca Mông Tày Nùng Thái, mỗi loại làn điệu có âm điệu riêng, nhưng không phải hoàn toàn riêng biệt, biệt lập với các loại dân ca Việt Nam. Từ lối sống cộng cư trên rả đất đan xen nhiều dân tộc Việt Mường, Mông Tày Thái Dao… dân ca ảnh hưởng qua lại. Âm điệu các làn điệu, cấu trúc phát triển giống dân ca các dân tộc trên nguyên tắc tiến hành phát triển giai điệu. Dân ca các dân tộc quan họ, nghệ tĩnh, Nam Bộ… đều có quy luật chung: mở đầu giai điệu âm thấp, âm trung, âm cao, đi lên hoặc đi xuống về âm gốc. Mô hình âm điệu cấu thành các thang âm. Thang âm giống nhau nhưng giai điệu âm nhạc khác nhau (sẽ nói ở chương sau).
Âm điệu dân ca Việt nhiều hoa mỹ, luyến láy, các loại láy nhấn vuốt, láy rền, láy hột… Dân ca các dân tộc ít láy, thường luyến. Dân ca Tày luyến âm tắc như hừ mà hứ, vớ… Dân ca Mông luyến xuống phà rề, đô rế… Những âm luyến pha rề, đô rế, âm hình đặc trưng dan ca Mông vùng Tây Bắc, các tỉnh phía Bắc. Dân ca Mông vùng Thanh Nghệ Tĩnh, ít xuất hiện loại dấu luyến trên, đặc trưng: son la, sí la, mi rề, rề là. Cảm giác nét giai điệu những nốt luyến này biểu cảm dân ca miền trung du, ít nét giai điệu, hoặc chưa thấy những quãng nhảy xa đô rê như dân ca Mông phía Bắc. Những năm chiến tranh giải phóng, tôi có dịp sống với đồng bào Mông ở Nghệ Tĩnh, nhiều nơi dưới chân rải Trường Sơn, đồng bào không ở trên những đỉnh núi cao mà ở bên các sườn núi thấp, hoặc dưới chân núi cùng đồng bào Thái, có nơi người Mông ở dưới thung lũng đồng bằng, có lẽ vì thế những bài dân ca Hoàng Thọ Sơn sưu tầm giai điệu bình ổn khác dân ca Mông phía Bắc.
2.1. Mô hình những âm luyến láy.
Âm luyến, thể hiện nghệ thuật hát gắn liền với lời ca, luyến nhằm thể hiện rõ lời hoặc một lối hát riêng. Nhiều âm luyến tạo ra quãng giai điệu đặc trưng âm điệu dân ca. Âm điệu giai điệu, âm điệu thang âm là những khác biệt dân ca các dân tộc biểu hiện phong cách riêng qua cấu trúc giai điệu dân ca các dân tộc.
Những làn hát nói, điệu dân ca các dân tộc hát ít luyến, thường những âm thẳng giống như ngôn ngữ tiếng nói tư duy, tấm lòng người dân tộc. Tiếp xúc nhiều dân tộc cách nói không hoa mỹ, nói thẳng, nói thật như cách nói nhà thơ Dương Thuấn bài Lá giầu:
Sớm mai anh xuống núi
Lá giầu em rọc đôi
Nửa lót dưới gối
Nửa anh mang về xuôi
Anh đi cất cho kỹ
Kẻo có kẻ rình mò
Nhỡ có người nhìn thấy
Họ biết lại cười cho…
(Trích trang 152 Tuyển tập văn học các dân tộc thiểu số. NXB Văn học 1995)
Đây là bài thơ đọc xong tôi sướng quá, vì bắt gặp một lối tư duy, phát ngôn dân tộc đầy ấn tượng về cảm xúc tình cảm và ngôn ngữ thơ. Đọc hết những bài thơ các nhà thơ dân tộc, tìm thấy những bài cách nói dân tộc ít lắm bởi các nhà thơ bị Việt hoá. Phải chăng cách nói dân tộc, tư duy người dân tộc bị coi là thấp, nên phải kinh hoá từ cấu trúc đến ngôn ngữ thơ? Bài thơ hay ở tứ từ lá giầu “nếu để rơi một nửa, làm nửa kia lá đau”. Tình cảm yêu thương mãi bên nhau bằng cách nói chân thật, mộc mạc rất mạnh bạo thẳng thắn: “Lá giầu em rọc đôi”, hoặc “Nhỡ có người nhìn thấy, họ biết lại cười cho”. Đọc đến câu này sao Sướng thế! Đúng cách nói người dân tộc. Nhớ ngày học lớp 10, thầy dạy văn đọc bài thơ của Cầm Biên đọng lại nhiều ấn tượng, lâu ngày, nhưng song lòng tôi vương vấn mãi, vì không có trong tuyển tập này nên nhớ chưa chính xác mấy câu thơ: Về thăm vợ mấy ngày, bàn tay có hơi vợ, tôi đánh thắng thằng tây… Hoặc nhà thơ Nông Quốc Chấn, bài Anh bộ đội: Lúc bắn bia thì anh trúng điểm, nhưng bắn hổ chỉ què chân… Bây giờ, ít thấy những câu thơ dân tộc bộc bạch hình ảnh bình dị tự nhiên, là người kinh gặp những câu thơ ấy, tôi vô cùng vui sướng như trở về nguồn cội của mình. Phải chăng? cách nói văn chương dân tộc là cách nói âm nhạc, bằng những làn điệu dân ca ít âm luyến láy, thường những âm thẳng tuột cùng lời ca. Dù ít luyến láy hoa mỹ, nhưng các làn điệu dân ca hay như những bài thơ, câu thơ dân tộc còn sót lại giai đoạn đầu các nhà thơ dân tộc chưa Việt hoá. Những âm luyến dân ca các dân tộc Mông Tày Nùng Thái, định rõ giai điệu dân ca cổ xưa của đồng bào.
(Còn tiếp)
(Nguồn: https://www.vanchuongviet.org/)