Thứ Năm, Tháng Mười Một 21, 2024
Trang chủLý LuậnNhững vấn đề bức thiết đặt ra từ thực tiễn hoạt động...

Những vấn đề bức thiết đặt ra từ thực tiễn hoạt động nghệ thuật biểu diễn hiện nay

13

         

Ảnh minh họa: Doãn Khánh

Ngày 18-3-2015, Bộ trưởng VHTTDL đã ký Quyết định số 763/QĐ-BVHTTDL ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển nghệ thuật biểu diễn đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.

Ngày 12-11-2021 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1909/QĐ-TTg Về việc phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030, nêu rõ những mục tiêu mà Chiến lược hướng tới, cùng với phương hướng hành động của lĩnh vực văn hóa nghệ thuật (VHNT) cho tới năm 2030 và xa hơn nữa.

Như vậy, thời gian thực hiện Quy hoạch tổng thể của ngành NTBD theo Quyết định số 1456/QĐ-TTg có gần 10 năm cuối trùng khớp với việc thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 do Chính phủ ban hành.

Tính từ thời điểm này (9-2023), thời gian còn lại chỉ hơn 7 năm nữa, nhưng, theo nhìn nhận của chúng tôi, lĩnh vực văn hóa nói chung, ngành NTBD nói riêng còn có quá nhiều việc cần phải làm, phải hoàn thiện…

Trong khuôn khổ bài viết này, tôi xin giới hạn vấn đề chỉ bàn về một số vấn đề còn vướng mắc, còn tồn đọng của lĩnh vực NTBD trong bối cảnh thực hiện Quy hoạch phát triển NTBD đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, cũng như thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030, từ đó đề xuất một số ý tưởng cải thiện tình hình.

2. Những vấn đề bức thiết đang đặt ra từ chính sách đến thực tiễn

Vấn đề xã hội hóa hoạt động VHNT

Ngày 21-8-1997 là thời điểm lần đầu tiên Chính phủ ban hành văn bản chính thức về xã hội hóa (XHH) hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, đó là Nghị quyết 90/CP. Nghị quyết 90/CP nêu rõ: “Xã hội hóa là xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân, phát triển rộng rãi các hình thức hoạt động do các tập thể hoặc các cá nhân tiến hành trong khuôn khổ chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; Xã hội hóa là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội, là giải pháp quan trọng để thực hiện chính sách công bằng xã hội;… Xã hội hóa không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của Nhà nước, giảm bớt phần ngân sách nhà nước; trái lại, Nhà nước thường xuyên tìm thêm các nguồn thu để tăng tỷ lệ ngân sách chi cho các hoạt động này, đồng thời quản lý tốt để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí đó” (1).

Tiếp theo Nghị quyết 90/CP đến nay đã có hàng chục Nghị định, Nghị quyết lớn của Nhà nước trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn các cấp, các ngành và toàn dân thực hiện XHH các hoạt động thuộc ba lĩnh vực thiết yếu của đời sống nhân dân.

Trước những chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước, hầu hết các nhà quản lý, các nghệ sĩ, và các nhà nghiên cứu VHNT đều nhận thức rằng chủ trương XHH hoạt động VHNT là bước đi tất yếu, là sự cần thiết trong công cuộc đổi mới của đất nước và thực hiện mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Đi tiên phong trong phong trào XHH hoạt động nghệ thuật là các nghệ sĩ ở TP.HCM, vùng đất từ xa xưa vốn nuôi dưỡng rất nhiều gánh hát cải lương và các đơn vị nghệ thuật tư nhân, nên khá nhạy bén với cơ chế mới. Những năm cuối TK XX và đầu TK XXI, đời sống sân khấu ở TP.HCM trở nên sôi động với sự đua nở của các đơn vị sân khấu XHH. Tuy là những sân khấu ngoài công lập nhưng đây lại là lực lượng sân khấu chủ đạo trong đời sống sân khấu ở TP.HCM, đóng góp không nhỏ vào đời sống tinh thần của người dân Thành phố một thời gian dài. Sự cởi mở hơn trong chính sách quản lý của Nhà nước đem lại niềm hứng khởi sáng tạo cho giới nghệ sĩ, từ đó niềm say mê nghệ thuật sân khấu của công chúng cũng được thỏa mãn.

Tuy nhiên, dăm năm trở lại đây, các đơn vị sân khấu kịch XHH ở TP.HCM lại gặp nhiều khó khăn, cũng lâm vào tình trạng thiếu vắng khán giả như sân khấu miền Bắc. Có những lý do khách quan và chủ quan. Lý do chính vẫn là ở vấn đề tài chính khó khăn, nguồn thu không ổn định và có phần kém đi do đời sống của người dân cũng khó khăn hơn, lượng khán giả đến rạp xem kịch không còn đông như trước; một số sân khấu hoạt động cầm chừng, có nơi phải đóng cửa hoàn toàn…

Ở miền Bắc, tại các đơn vị nghệ thuật công lập, hoạt động XHH chủ yếu chỉ là những hoạt động mang tính thời vụ, đơn lẻ trong các nhà hát, nguồn kinh phí chủ yếu vẫn là ngân sách được cấp hằng năm. Còn các đơn vị nghệ thuật ngoài công lập, chỉ có dăm ba câu lạc bộ, nhóm hoạt động không thường xuyên. Cả miền Bắc chỉ có duy nhất một đơn vị nghệ thuật tư nhân là Sân khấu Lệ Ngọc hoạt động có hiệu quả.

Tình hình chung của các đơn vị nghệ thuật tư nhân là phải tự xoay xở, từ cơ sở vật chất, địa điểm biểu diễn đến kinh phí dàn dựng và tổ chức biểu diễn. Vào các kỳ liên hoan, các cuộc thi tài năng nghệ thuật do Cục Nghệ thuật Biểu diễn tổ chức các đơn vị nghệ thuật sân khấu tư nhân, tham gia rất ít, lý do vẫn là vì khả năng tài chính hạn hẹp, khó tìm được nguồn tài trợ.

Nhìn vào thực tế hoạt động XHH trong lĩnh vực NTBD hơn 20 năm qua (từ khi Nhà nước ban hành chính sách XHH), cần thẳng thắn thừa nhận rằng kết quả chưa được như mong đợi, con đường XHH còn rất nhiều khó khăn, trở ngại… Để chủ trường XHH hoạt động văn hóa nghệ thuật đi vào thực tiễn mạnh mẽ hơn thì cần có những đổi mới hơn nữa về chính sách và sự đồng bộ trong bộ máy quản lý nhà nước.

Vấn đề tự chủ tài chính và tổ chức bộ máy

Một trong những vấn đề chủ chốt của chính sách XHH hoạt động nghệ thuật biểu diễn chính là cơ chế tự chủ tài chính của các đơn vị nghệ thuật biểu diễn công lập, theo tinh thần Nghị định số 43/2006/ NĐ-CP ngày 25-4-2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.

Thực tiễn hoạt động NTBD ở cả hai miền Nam, Bắc mấy chục năm qua cho thấy có một nghịch cảnh: Một mặt, ai cũng nhận thức được rằng XHH hoạt động VHNT là bước đi phù hợp với quy luật phát triển của đất nước trên con đường đổi mới và hội nhập quốc tế, phù hợp với cơ chế của nền kinh tế thị trường… Mặt khác, ai cũng phải thừa nhận rằng hơn hai chục năm trôi qua, chủ trương XHH hoạt động VHNT vẫn chưa được thực hiện một cách rộng khắp và chưa thực sự mang lại hiệu quả cao, nhất là các đơn vị nghệ thuật công lập miền Bắc vẫn rất dè dặt, e ngại trước cảnh cửa xã hội hóa… Theo chúng tôi, vấn đề có lẽ bắt đầu từ chính sách, từ cơ chế mà chính sách đã tạo ra – một cơ chế thoạt nhìn có vẻ thông thoáng, cởi mở hơn nhiều so với thời bao cấp, nhưng qua cọ xát với thực tiễn mới thấy còn nhiều điều bất cập, vướng mắc.

Về vấn đề này, trước đây tôi đã có đôi lần phát biểu trong các hội thảo của ngành, cũng đã công bố một số bài báo nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành văn hóa, nghệ thuật. Tại đây tôi xin nhắc lại một số ý kiến mà tôi thấy đến nay vẫn có giá trị. Phân tích nguyên nhân của thực trạng XHH hoạt động nghệ thuật còn nhiều hạn chế, bất cập, chúng tôi cho rằng:

 “Thứ nhất, bất cập ở môi trường pháp lý: Chủ trương nhà nước cắt giảm ngân sách, để các đơn vị nghệ thuật chủ động về tài chính là chủ trương cần phải làm. Tuy nhiên, để thực hiện được việc này, nhà nước cần phải có một loạt chính sách khác để tạo ra môi trường pháp lý giúp cho các đơn vị nghệ thuật có thể tồn tại và hoạt động được. Một trong những chính sách có liên quan trực tiếp đến vấn đề này là chính sách giảm hoặc miễn thuế đối với các khoản tài trợ cho hoạt động VHNT. Tuy nhiên cho đến nay Nhà nước chưa có chủ trương này, cho nên các đơn vị nghệ thuật nếu có nhận được tài trợ từ các tổ chức kinh tế thì cũng chỉ là những khoản ít ỏi, không ổn định, họ không có cơ hội nhận các khoản tài trợ cho hoạt động thường xuyên, hàng năm.

Thứ hai, vướng mắc ở chính sách sử dụng nhân lực trong các đơn vị NTBD. Nhiều vị lãnh đạo các đơn vị nghệ thuật công lập cho biết, họ đều phải đối mặt với một vấn đề rất nan giải: giải quyết thế nào lực lượng nghệ sĩ đã lớn tuổi, không còn khả năng biểu diễn nhưng chưa đến tuổi về hưu? Đây là “di sản” của cơ chế bao cấp để lại, do chúng ta quản lý nghệ sĩ như là công chức, đúng tuổi quy định của Nhà nước (nam: 60 tuổi, nữ: 55 tuổi) thì mới nghỉ hưu. Hiện nay số nghệ sĩ lớn tuổi không biểu diễn được nữa nhưng chưa đến tuổi nghỉ hưu ở nhiều đơn vị nghệ thuật công lập chiếm khoảng trên dưới 20%. Điều này có nghĩa là các lớp diễn viên trẻ được đào tạo bài bản, mới ra trường, nhiều người tài năng, nhưng không có chỗ để vào các đơn vị nghệ thuật công lập, hoặc họ chỉ là các “cán bộ” hợp đồng, với đồng lương hợp đồng ít ỏi và một vị trí làm việc không ổn định” (2).

 Đây là hai trong những nguyên nhân đã và đang cản trở cho quá trình XHH các hoạt động của NTBD hầu như đang dậm chân tại chỗ.

Nguy cơ “nghiệp dư hóa” nhiều đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp

Chủ trương sắp xếp lại cơ cấu tổ chức các đơn vị nghệ thuật công lập là một trong những vấn đề được Nhà nước quan tâm khi ban hành Nghị quyết về XHH hoạt động văn hóa nghệ thuật VHNT.

Nghị quyết số 90/CP ban hành từ năm 1997 đã nói rất cụ thể: “Sắp xếp lại các đơn vị nghệ thuật được ngân sách nhà nước tài trợ theo hướng: ở trung ương tập trung xây dựng các đoàn nghệ thuật tiêu biểu (như tuồng, chèo, cải lương, xiếc, kịch nói, ca múa nhạc dân tộc, giao hưởng, ba lê, múa rối…); ở địa phương chỉ duy trì những đơn vị tiêu biểu cho truyền thống nghệ thuật của địa phương. Cho phép một số đoàn nghệ thuật mang tính gia đình, tư nhân hoặc tập thể được hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, có sự quản lý của Nhà nước về nội dung và chất lượng nghệ thuật” (3).

Bảy năm sau, tinh thần của nghị quyết 90/CP được tiếp tục thể hiện trong Quy hoạch tổng thể phát triển nghệ thuật biểu diễn đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (theo Quyết định số 1456/QĐ-TTg, ngày 19-8-2014). Tại Mục I. Quan điểm của Quy hoạch nói rõ: “Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động nghệ thuật biểu diễn, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực nghệ thuật biểu diễn theo quy định của pháp luật”; Tại Mục II. Mục tiêu nhấn mạnh: “Tổ chức, sắp xếp lại các đơn vị nghệ thuật công lập, theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp hóa, khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển nghệ thuật biểu diễn theo quy định của pháp luật…” (4).

Theo Quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực VHTTDL đến năm 2021, định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 429/QĐ-TTg ngày 18-4-2019 thì “mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương duy trì một nhà hát hoặc đoàn nghệ thuật truyền thống, tiêu biểu của địa phương (nếu có). Các nhà hát hoặc đoàn nghệ thuật khác hợp nhất với trung tâm văn hóa, trung tâm văn hóa – thông tin hoặc nhà văn hóa cấp tỉnh… thành một đầu mối hoặc chuyển sang hình thức ngoài công lập”.

Sắp xếp, kiện toàn bộ máy tinh gọn các đơn vị nghệ thuật để nâng cao hiệu quả hoạt động là cần thiết. Tuy nhiên, bất cập đang xảy ra ở địa phương là tình trạng “nghiệp dư hóa” nghệ thuật chuyên nghiệp khi sáp nhập các đoàn nghệ thuật có loại hình nghệ thuật khác nhau vào một đơn vị. Bởi vì mỗi loại hình nghệ thuật có những đặc trưng nghệ thuật riêng của từng chủng loại; người diễn viên có thể rất giỏi ở bộ môn nghệ thuật này mà không thể làm diễn viên của bộ môn nghệ thuật khác, đó là chuyện rất bình thường. Tình trạng sáp nhập đơn vị nghệ thuật tuồng với chèo, hay nghệ thuật sân khấu kịch hát với kịch nói, hay kịch nói với ca múa nhạc cần phải được rà soát, tính toán lại. Chưa kể việc sáp nhập như vậy làm đảo lộn hoạt động của một loạt đơn vị nghệ thuật, dẫn đến xáo trộn đời sống của nghệ sĩ và các bộ phận liên quan. Đây là một cuộc “ép duyên” đối với nghệ thuật lẫn đối với người nghệ sĩ, chắc chắn không thể sinh ra những “đứa con” khỏe mạnh, đẹp đẽ được.

Việc sáp nhập các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp cấp tỉnh, thành phố vào Trung tâm Văn hóa tỉnh, thành cũng bộc lộ bất cập. Hai bộ phận này vốn không cùng một lĩnh vực, có chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Xét về mặt nghệ thuật cũng ở trình độ chuyên môn khác nhau, một bên là chuyên nghiệp (nhà hát/ đoàn nghệ thuật), còn bên kia là hoạt động phong trào quần chúng, họ có nghiệp vụ chuyên môn rất khác nhau.

Theo tôi, việc sáp nhập các đoàn nghệ thuật ở các địa phương theo kiểu cơ học cứng nhắc như hiện nay dẫn tới cái được thì ít mà cái mất là lớn và sẽ để lại hệ lụy lâu dài, thậm chí sẽ làm bào mòn và rơi rụng mất những giá trị đặc sắc của các loại hình nghệ thuật dân tộc.

Nghệ thuật biểu diễn Việt Nam chưa đủ mạnh để nhập cuộc Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa

Tại Việt Nam, các ngành công nghiệp văn hóa (CNVH) bao gồm 12 lĩnh vực: Quảng cáo; Kiến trúc; Phần mềm và các trò chơi giải trí; Thủ công mỹ nghệ; Thiết kế; Điện ảnh; Xuất bản; Thời trang; Nghệ thuật biểu diễn; Mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; Truyền hình và phát thanh; Du lịch văn hóa.

Ngày 8-9-2016, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1755/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Đảng và Nhà nước ta xác định CNVH là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của kinh tế tri thức, góp phần quảng bá, bảo vệ, phát triển bản sắc dân tộc, vì thế đang có chủ trương đẩy mạnh phát triển các ngành CNVH.

Hội nghị Văn hóa toàn quốc (24-11-2021 tại Hà Nội) đã thể hiện sự quan tâm ngày càng cao đến phát triển văn hóa của lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Phát biểu tại Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh rằng một trong những giải pháp quan trọng để phát triển văn hóa là tập trung phát triển các ngành CNVH.

Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2030 đề ra chỉ tiêu cụ thể: đến 2030 doanh thu từ 12 ngành CNVH chiếm 7% GDP. Theo nhiều nhà quản lý lĩnh vực văn hóa thì con số này là thách thức lớn trong bối cảnh ở Việt Nam chưa thực sự hiện hữu ngành CNVH với đúng nghĩa của nó, bởi đây là cả một quy trình kết nối và liên kết nhiều công đoạn, được khởi đầu từ khâu sáng tạo tác phẩm VHNT, đến sản xuất và phân phối sản phẩm đến người tiêu dùng, từ đó tạo ra nguồn doanh thu cho các bên tham gia vào quy trình này và đem lại lợi ích kinh tế cho quốc dân.

“Trở ngại lớn nhất hiện nay đối với sự phát triển các ngành CNVH sáng tạo ở Việt Nam chính là sự thiếu đồng bộ trong chính sách và thiếu sự phối kết hợp giữa các bộ, ngành. Trên thực tế, dù là cơ quan đầu mối nhưng Bộ VHTTDL chỉ chịu trách nhiệm 6 ngành CNVH, các ngành còn lại nằm rải rác ở các bộ, ngành khác.

Xét riêng trong lĩnh vực nghệ thuật, ngành Điện ảnh là ngành có ưu thế hơn cả với tư cách là một ngành CNVH có thể đạt được những lợi ích kinh tế đáng kể. Trong khi đó, do đặc thù loại hình, nghệ thuật biểu diễn cho tới thời điểm hiện tại vẫn như “kẻ đứng ngoài cuộc chơi CNVH”, đang phải xoay xở để nuôi sống nghệ sĩ và cố gắng duy trì hoạt động nghề một cách thường xuyên, có lẽ chưa dám ước mơ tới con số 31 triệu USD doanh thu để đóng góp vào mục tiêu chung 7% GDP của cả lĩnh vực CNVH vào 2030” (5).

NTBD Việt Nam đến nay vẫn chưa có riêng một bộ luật của ngành.

Thiết nghĩ, đây là điều kiện tiên quyết của mọi điều kiện nhưng đến nay ngành NTBD vẫn chưa có Luật Nghệ thuật Biểu diễn. Trong khi “người anh em” gần gũi là điện ảnh thì từ 2006 đã có Luật Điện ảnh, và từ đó đến nay đã qua mấy lần sửa đổi, bổ sung.

Theo chúng tôi, không thể chậm trễ hơn nữa. Chỉ khi có bộ Luật của ngành thì mọi hoạt động của của lĩnh vực NTBD mới được vận hành một cách bài bản và có hiệu quả. Để quá trình XHH hoạt động nghệ thuật trở thành phổ biến rộng rãi trong xã hội, dần tiến tới các tổ chức nghệ thuật của nhóm tập thể/ tư nhân/ gia đình chiếm ưu thế đa số trong các đơn vị nghệ thuật thì cần có Luật Nghệ thuật biểu diễn. Để NTBD Việt Nam trở thành một ngành CNVH vững mạnh thì không thể thiếu Luật Nghệ thuật biểu diễn. Một khi có Luật Nghệ thuật biểu diễn thì sẽ dần xóa bỏ được rất nhiều hạn chế trong công tác quản lý và vận hành các hoạt động của ngành NTBD đang có nhiều bất cập như hiện nay.

Tất nhiên việc xây dựng bộ luật nào cũng là một việc làm rất khó khăn, đòi hỏi sự đóng góp trí tuệ, công sức của nhiều người. Xây dựng Luật Nghệ thuật biểu diễn không ngoài yêu cầu đó, thậm chí còn khó hơn so với nhiều lĩnh vực khác, vì đây là một ngành với nhiều đặc thù, đòi hỏi những người làm luật phải rất am hiểu về lĩnh vực này. Nhưng khó đến đâu thì cũng cần phải làm, và làm càng sớm càng tốt (dù đã là quá muộn).

3. Một số đề xuất giải pháp

Để chính sách XHH hoạt động NTBD trở thành xu thế phổ biến, phát triển sâu rộng và thuận lợi, dần dần trở thành cơ chế hoạt động chủ yếu của lĩnh vực NTBD thì trong những năm tới Nhà nước cần có một số thay đổi đột phá trong chính sách, tạo điều kiện cho bộ phận các tổ chức nghệ thuật tư nhân ra đời nhiều hơn và phát triển mạnh mẽ hơn.

Nhìn một cách tổng thể, theo tôi cần tập trung vào ba yếu tố: cơ cấu tổ chức các đơn vị nghệ thuật và cơ chế vận hành; nguồn lực tài chính; nguồn lực con người. Đây là ba nhân tố mang tính nền tảng, có ý nghĩa đòn bẩy, có thể tạo ra những thay đổi mới mẻ, hay những bước tiến lớn của lĩnh vực NTBD trong tương lai, đưa NTBD Việt Nam tiến tới gần hơn với sự phát triển của NTBD các nước tiên tiến trên thế giới.

Về đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành các đơn vị NTBD

Ở Trung ương: giữ nguyên 12 đơn vị nghệ thuật của Nhà nước như trước đây. Mỗi bộ môn nghệ thuật, truyền thống cũng như hiện đại, cần có một nhà hát quốc gia, được đầu tư đầy đủ về hạ tầng cơ sở, kỹ thuật hiện đại, có đội ngũ nghệ sĩ thật sự tài năng, có năng lực xây dựng nhiều chương trình nghệ thuật chất lượng cao, là địa chỉ thu hút đông đảo khán giả trong nước và quốc tế.

Ở cấp tỉnh, thành: tùy vào điều kiện của mỗi địa phương mà tập trung xây dựng từ 1-2 nhà hát/ đoàn về loại hình nghệ thuật tiêu biểu của địa phương mình. Còn lại, các đoàn nên hoạt động theo cơ chế xã hội hóa, với quy mô là đoàn, hay CLB, hoặc nhóm, nơi các chủ thể là nhóm tập thể, hay gia đình, tư nhân… Nhưng, dù ở cấp độ nào thì cũng nên chuyên biệt một bộ môn nghệ thuật, không thể gán ghép, pha tạp “mỗi thứ một tý” thì khó mà phát triển một cách chuyên nghiệp cao để đáp ứng được khán giả của thời đại công nghệ số này.

Về nguồn lực tài chính

Nguồn tài chính mà chúng tôi muốn nói tới không chỉ liên quan tới các các đơn vị nghệ thuật công lập, và câu chuyện cũng không chỉ ở vấn đề các đơn vị công lập được tự chủ tài chính như thế nào, tự chủ đến mức độ nào… Vấn đề nguồn lực tài chính liên quan trực tiếp đến tất cả các tổ chức nghệ thuật, công lập lẫn ngoài công lập. Nói một cách khái quát hơn, vấn đề nguồn lực tài chính liên quan tới chính sách XHH hoạt động nghệ thuật, nó quyết định “sức khỏe” của tất cả các tổ chức nghệ thuật.

Có một thực tế luôn luôn đúng và đúng ở mọi nơi, mọi thời đại, đó là hoạt động nghệ thuật luôn luôn cần có tài trợ, tài trợ để nuôi sống nghệ sĩ, để nghệ sĩ sáng tạo nghệ thuật và sản xuất ra sản phẩm nghệ thuật để phục vụ xã hội; chỉ riêng nguồn thu bán vé không thể đủ để làm những công việc trên, càng không đủ để tái đầu tư sản xuất các chương trình, tác phẩm nghệ thuật mới… Ngay ở các nước giàu có nhất, có nền nghệ thuật phát triển nhất như Anh, Pháp, Mỹ (và nhiều nước phát triển khác nữa) đã có chính sách tài trợ cho nghệ thuật gần trăm năm trước.

Để cho quá trình XHH hoạt động NTBD có thể tiếp tục đi vào thực tiễn cần lắm những đổi mới hơn nữa về chính sách từ nhà nước để các đơn vị nghệ thuật có được nhiều nguồn tài trợ từ các doanh nghiệp, các mạnh thường quân để có thể ổn định làm nghề và phát triển.

Các tổ chức NTBD cần được đối xử bình đẳng như các đơn vị nghệ thuật công lập, cũng được hưởng những ưu đãi và sự hỗ trợ của Nhà nước, nếu để họ đơn độc chèo lái đơn vị của mình thì rất khó để tồn tại và phát triển trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt của cơ chế thị trường.

Nhà nước cần tạo điều kiện và khuyến khích thành lập các quỹ dành cho nghệ thuật biểu diễn.

Về nguồn nhân lực

Hiện nay, những người “đứng mũi chịu sào” của các đơn vị nghệ thuật công lập đều đồng nhất ý kiến cho rằng: Nhà nước cần có một khoản ngân sách để giải quyết cho lực lượng nghệ sĩ “dôi dư” ở các đơn vị nghệ thuật công lập được nghỉ với chính sách thỏa đáng, xứng đáng với những năm tháng cống hiến của họ, nhưng cần giải quyết càng sớm càng tốt, thì mới tháo gỡ khó khăn cho các đơn vị khi chuyển sang tự chủ hoàn toàn được.

Để chuẩn bị nguồn nhân lực sáng tạo nghệ thuật có chất lượng cao cho ngành NTBD Việt Nam, Nhà nước cần chú trọng công tác đào tạo hơn nữa. Hiện nay, công tác đào tạo của các trường văn hóa nghệ thuật của nước ta chưa thực sự phù hợp và tương xứng với nhu cầu của ngành, của xã hội. Đội ngũ giáo viên còn thiếu và yếu. Chương trình đào tạo còn nhiều bất cập.

Có một chuyên ngành rất cần thiết cho lĩnh vực NTBD là chuyên ngành Kinh tế Nhà hát ở Việt Nam chưa hề có, trong khi ở nhiều nước phát triển trên thế giới đã được đưa vào đào tạo trong các nhà trường nghệ thuật từ 70, 80 năm trước. Ngay như ở Liên Xô trước đây – là một thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa với cơ chế bao cấp toàn diện, từ những năm giữa TK XX, trong các nhà trường nghệ thuật đã có đào tạo chuyên ngành Kinh tế Nhà hát và Kinh tế Điện ảnh. Thiết nghĩ, trong cơ chế kinh tế thị trường, các chuyên ngành này càng đặc biệt cần thiết. Với Việt Nam, khi các ngành nghệ thuật chuyển sang hoạt động trong cơ chế thị trường và đang trong tiến trình thực hiện XHH, đây là chuyên ngành rất cần phải có để đào tạo ra các nhà quản lý nghệ thuật chuyên nghiệp.

4. Thay lời kết

Tính đến 2030, chỉ còn 7 năm nữa nhưng ngành NTBD Việt Nam đang đứng trước rất nhiều bộn bề những việc cần phải làm. Điều cần phải làm nhất vẫn là sự đổi mới mạnh mẽ hơn nữa chính sách của Nhà nước để tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi, nhằm thúc đẩy quá trình NTBD thực hiện các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước đặt ra với ngành, đưa NTBD trở thành một ngành CNVH thực sự có đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế của đất nước.

Để tạo được những thay đổi lớn trong chính sách cũng như trong quá trình thực thi chính sách, cần có sự đồng bộ và sự chung tay của nhiều bộ, ban, ngành trong bộ máy quản lý nhà nước, trong đó Bộ VHTTDL là Bộ chủ trì thực hiện.

___________________

1. Nghị quyết 90/CP ngày 21-8-1997 về phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa.

2, 5. Lê Thị Hoài Phương, Nghĩ về con đường phát triển của nghệ thuật biểu diễn Việt Nam trong Chiến lược phát triển văn hóa, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 521, 1-2023, tr.66-71, 65.

3. Nghị quyết 90/CP ngày 21-8-1997 về phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa.

4. Quyết định số 1456/QĐ-TTg, ngày 19-8-2014 Phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển nghệ thuật biểu diễn đến năm 2020, định hướng đến năm 2030”.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Tài chính, Chế độ tự chủ về tài chính, biên chế đối với cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, Nxb Bộ Tài chính, 2006.

2. Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Đánh giá 5 năm thực hiện Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa 2016-2021, Bộ VHTTDL – Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Hà Nội, 12-09-2022.

3. Nghị định 73/CP ngày 19-8-1999 của Chính phủ về chính sách xã hội hóa.

4. Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25-4-2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.

5. Nghị quyết 90/CP ngày 21-8-1997 về phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa.

6. Lê Thị Hoài Phương, Tự chủ tài chính – một bước trên lộ trình xã hội hóa các đơn vị nghệ thuật biểu diễn công lập, Tạp chí Văn hóa học (VICAS), số 2 (18), 2015, tr.82-87.

7. Quyết định số 1456/QĐ-TTg, ngày 19-8-2014 về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển nghệ thuật biểu diễn đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.

8. Quyết định số: 1909/QĐ-TTg ngày 12-11-2021 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030.

9. Thông tư 135/2008/TT-BTC, ngày 30-5-2008 của Bộ Tài chính, việc phát triển các đơn vị nghệ thuật theo mô hình xã hội hóa.

10. UNESCO, Các ngành Công nghiệp văn hóa – Tâm điểm của văn hóa trong tương laiportal.unesco.org.

Nguồn: Tạp chí VHNT số 557, tháng 1-2024

___________________

Tham luận tại Hội thảo “Thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 – Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn” do Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật tổ chức (9-2023).

Tác giả: GS, TS LÊ THỊ HOÀI PHƯƠNG

BÀI LIÊN QUAN

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

PHỔ BIẾN

BÌNH LUẬN