1. Công nghiệp văn hóa
Năm 1982, UNESCO cho rằng: “Các ngành công nghiệp văn hóa xuất hiện khi các hàng hóa và dịch vụ văn hóa được sản xuất và tái sản xuất, được lưu trữ và phân phối trên dây chuyền công nghiệp và thương mại, tức là trên quy mô lớn, phù hợp với chiến lược kinh tế hơn là phát triển văn hóa” (1). Tại Hội nghị Thượng đỉnh về hoạt động văn hóa được tổ chức tại Stockholm (Thụy Điển) tháng 4-1998, “thuật ngữ công nghiệp văn hóa đã được gần 20 quốc gia thông qua” (2).
Nghệ thuật biểu diễn là một ngành công nghiệp văn hóa trụ cột trong các ngành công nghiệp văn hóa của Việt Nam – Ảnh: thanglong.chinhphu.vn
Trong những tài liệu gần đây của UNESCO, các ngành công nghiệp văn hóa được xem là những ngành sản xuất ra sản phẩm hữu hình hoặc vô hình mang tính nghệ thuật, sáng tạo và có tiềm năng tạo ra thu nhập, của cải thông qua việc khai thác các tài sản văn hóa, sản xuất hàng hóa, dịch vụ dựa trên tri thức (cả truyền thống và đương đại). Các lĩnh vực thuộc các ngành công nghiệp văn hóa có điểm chung là đều vận dụng tính sáng tạo, tri thức văn hóa và sở hữu trí tuệ để tạo ra các sản phẩm, dịch vụ với ý nghĩa văn hóa, xã hội (3). Khái niệm công nghiệp liên quan đến sản xuất hàng hóa, còn khái niệm văn hóa thường diễn đạt ý niệm trừu tượng về giá trị. Ghép hai khái niệm này với nhau sẽ thể hiện sức mạnh tiềm ẩn của văn hóa về phương diện kinh tế mà trước đây chúng ta ít chú ý tới (4).
O’Connor định nghĩa, công nghiệp văn hóa là những hoạt động giao thương hàng hóa mang tính biểu trưng, mà giá trị kinh tế của những hàng hóa này phát sinh từ chính giá trị văn hóa của chúng (5). Tác giả phân loại các ngành công nghiệp văn hóa gồm cả văn hóa đương đại như: phát thanh truyền hình, điện ảnh, xuất bản, thu thanh, thiết kế, kiến trúc, phương tiện truyền thông mới. Văn hóa truyền thống gồm nghệ thuật thị giác, thủ công, sân khấu, nghệ thuật trình diễn, văn học, bảo tàng, triển lãm.
Thuật ngữ các ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo “sử dụng cho các ngành công nghiệp kết hợp sự sáng tạo, sản xuất và thương mại hóa các nội dung sáng tạo, những nội dung này về bản chất mang tính phi vật thể và văn hóa. Các nội dung này thường được bảo vệ bởi Luật Sở hữu trí tuệ và thể hiện dưới hình thức sản phẩm hay dịch vụ…” (6). Bên cạnh tất cả các hoạt động sản xuất văn hóa và nghệ thuật, chúng còn bao gồm các lĩnh vực kiến trúc và quảng cáo… Cũng theo UNESCO, sáng tạo “là một quá trình liên tục, hỗ trợ, khuếch đại và tái tạo sự đa dạng văn hóa theo thời gian và không gian, để nó có thể tiếp tục truyền tải những biểu hiện mang ý nghĩa mới cho thời đại của chúng ta và cho thế hệ tương lai”. Ngoài ra, một số tổ chức, quốc gia còn sử dụng các thuật ngữ khác nhau như: công nghiệp bản quyền, công nghiệp nội dung, công nghiệp nội dung văn hóa, công nghiệp giải trí, công nghiệp nghệ thuật.
2. Nghệ thuật biểu diễn
Nghệ thuật biểu diễn là hoạt động nghệ thuật gắn với vai trò của người biểu diễn. Người biểu diễn đóng vai trò trung tâm, chi phối các yếu tố nghệ thuật khác. Thông qua quá trình sáng tạo, từ lúc nghiên cứu tác phẩm đến khi đặt mình trong hoàn cảnh và hành động, đó là quá trình hóa thân của người biểu diễn, dùng tâm hồn, trí tuệ, cơ thể, cảm xúc, hóa vai, nhập vai, hoạt động trong vai kịch, hay thể hiện một ca khúc, một bản nhạc… yếu tố biểu diễn của người nghệ sĩ rất quan trọng. Nghệ thuật biểu diễn gồm các loại hình nghệ thuật phong phú như: kịch hát, kịch nói, trình diễn ca múa nhạc, sân khấu, xiếc, ảo thuật… Nền nghệ thuật biểu diễn của Việt Nam đã trải qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài với nhiều hình thức đa dạng và chất lượng nghệ thuật ngày càng được nâng cao.
Nghệ thuật biểu diễn là một ngành công nghiệp văn hóa trụ cột trong các ngành công nghiệp văn hóa của Việt Nam, là một bộ phận của nền văn hóa nghệ thuật dân tộc. Nghệ thuật biểu diễn là một nội dung quan trọng của văn hóa tinh thần, là sự biểu hiện tinh tế nhất của văn hóa thẩm mỹ. Nó được hình thành và có sức tác động lớn đến tâm hồn, cảm xúc, trí tuệ, tình cảm của con người xã hội. Nghệ thuật biểu diễn chịu sự tác động trực tiếp của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội; đồng thời nghệ thuật biểu diễn cũng là tấm gương phản chiếu đời sống xã hội, khoa học công nghệ. Nghệ thuật biểu diễn có các chức năng quan trọng: giải trí, nhận thức, thẩm mỹ, giáo dục… định hướng thẩm mỹ, giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống… cho công chúng. Những tác phẩm nghệ thuật biểu diễn sẽ chuyển tải những thông điệp, giá trị nghệ thuật tới công chúng một cách sâu sắc và hiệu quả.
Có thể chia nghệ thuật biểu diễn thành nghệ thuật biểu diễn truyền thống và nghệ thuật biểu diễn đương đại.
Nghệ thuật biểu diễn truyền thống: gồm các loại hình sân khấu kịch hát dân tộc như tuồng, chèo, múa rối. Bên cạnh đó là các hình thức sân khấu mới được hình thành cách đây vài trăm năm như cải lương, ca kịch Huế, ca kịch bài chòi. Sự ra đời của các loại hình sân khấu mới là kết quả của quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa. Không chỉ vậy, xã hội Việt Nam còn tồn tại nhiều hình thức diễn xướng dân gian của mỗi cộng đồng dân tộc ít người sống trên lãnh thổ Việt Nam trải từ Bắc vào Nam. Các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống có sức sống bền bỉ trong dân gian và được cộng đồng lưu giữ, trao truyền qua mỗi thế hệ.
Nghệ thuật biểu diễn đương đại: Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, các hình thức nghệ thuật biểu diễn có nguồn gốc từ bên ngoài du nhập vào Việt Nam như: kịch nói, vũ kịch, nhạc kịch, xiếc, tạp kỹ, múa đương đại… đã được công chúng đón nhận. Nhiều tác phẩm kinh điển của kho tàng sân khấu thế giới được giới thiệu ở Việt Nam với các tên tuổi lớn: Shakespear (Anh), Moliere, V.Hugo (Pháp), Sinler (Đức)… Loại hình kịch nói phát triển cả chính kịch, bi kịch và hài kịch (7). Đặc biệt, trong những năm gần đây còn xuất hiện một số loại hình nghệ thuật biểu diễn đương đại mới như nhạc dân gian điện tử, sân khấu thực cảnh. Nhạc dân gian điện tử là loại hình nghệ thuật kết hợp giữa âm nhạc truyền thống và âm nhạc điện tử. Sân khấu thực cảnh là loại hình nghệ thuật biểu diễn được thực hiện trên nền cảnh quan thực tế, thường là sân khấu ngoài trời bao gồm các yếu tố cảnh sắc thiên nhiên như sông hồ, biển cả, rừng núi… hài hòa với đời sống sinh hoạt của con người bản địa. Đây là hình thức nghệ thuật sử dụng chất liệu truyền thống, kết hợp với các hiệu ứng sân khấu hiện đại như âm thanh, ánh sáng, hệ thống bàn nâng công nghệ cao với nhiều phương thức, đạo cụ đặc biệt. Ngày nay, sân khấu thực cảnh đang trở thành những điểm nhấn trong sáng tạo những sản phẩm du lịch, thu hút khách du lịch văn hóa.
Đặc biệt, những năm cuối TK XX và đầu TK XXI, do ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài vào Việt Nam nên đã hình thành các dòng nhạc mang hơi thở thời đại trên nền tảng tiếp biến các dòng nhạc thế giới, trong đó có các dòng nhạc mang tính toàn cầu như pop, rap, jazz… Sân khấu ca nhạc hiện nay đang chiếm ưu thế. Hoạt động sáng tác, biểu diễn, sản xuất, kinh doanh chú ý đến mọi lứa tuổi, từ học sinh, sinh viên đến những người lớn tuổi, từ thành thị đến nông thôn. Thị trường âm nhạc trở nên sôi động với các sản phẩm đa dạng, từ các lễ hội âm nhạc lớn như lễ hội Âm nhạc Gió mùa (Monsoon) tổ chức tại Hoàng thành Thăng Long, đến các chương biểu diễn của các nghệ sĩ nổi tiếng thế giới như nhóm nhạc BlackPink…
3. Nghệ thuật biểu diễn với phát triển công nghiệp văn hóa
Việc ban hành Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 8-9-2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành Công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (8) là một dấu mốc quan trọng trong công cuộc phát triển các ngành công nghiệp văn hóa với những mục tiêu quan trọng.
Theo báo cáo số 34/BC-BVHTTDL ngày 9-3-2021 về kết quả triển khai, thực hiện Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 8-9-2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 của Bộ VHTTDL, về lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn: năm 2017, tổ chức hơn 2.851 buổi biểu diễn (trong đó 213 buổi biểu diễn phục vụ vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo), phục vụ tổng số hơn 1.418.300 lượt người xem. Doanh thu bán vé khoảng hơn 72 tỷ đồng. Năm 2018, tổ chức 2.118 buổi biểu diễn; doanh thu bán vé hơn 104 tỷ đồng. Năm 2019, các đoàn nghệ thuật ở Trung ương đã tổ chức dàn dựng 40 chương trình, 3.398 buổi biểu diễn (trong đó có 652 buổi biểu diễn phục vụ vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo), kinh phí ước tính từ các buổi biểu diễn bán vé đạt 72,5 tỷ đồng. Các đoàn nghệ thuật ở địa phương đã tổ chức dàn dựng 167 chương trình, 7.049 buổi biểu diễn (trong đó 3.065 buổi biểu diễn phục vụ vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo), 7.023.646 lượt người xem; kinh phí ước tính từ các buổi biểu diễn có bán vé đạt gần 38 tỷ đồng; cấp 162 giấy phép cho các đơn vị nghệ thuật, đơn vị tổ chức biểu diễn nghệ thuật Trung ương trên toàn quốc, 193 giấy phép (340 lượt nghệ sĩ) cho nghệ sĩ Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam biểu diễn nghệ thuật; cấp phép 53 đoàn nghệ thuật nước ngoài vào Việt Nam biểu diễn nghệ thuật và 9 đoàn nghệ thuật trong nước ra nước ngoài tham gia biểu diễn; 2 giấy phép tổ chức cuộc thi người đẹp, người mẫu quốc gia. Năm 2020, tổng số các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp trên cả nước là 124 đoàn (trong đó có 12 đoàn nghệ thuật Trung ương, 106 đoàn nghệ thuật địa phương, 12 đoàn nghệ thuật do các Bộ khác quản lý). Tổng số vở diễn sân khấu, chương trình ca múa nhạc và công diễn là 837 (trong đó 299 chương trình của đơn vị nghệ thuật Trung ương, 538 chương trình của đơn vị nghệ thuật địa phương); tổ chức 6 cuộc thi, liên hoan biểu diễn nghệ thuật. Tổng số doanh thu của các đơn vị nghệ thuật Trung ương do Bộ VHTTDL quản lý là gần 60, 227 tỷ đồng. Tổng số buổi biểu diễn là 3.749 buổi (1.249 buổi do đơn vị nghệ thuật Trung ương và 2.500 buổi do đơn vị nghệ thuật địa phương thực hiện) (9).
Năm 2020-2021 là giai đoạn ngành nghệ thuật biểu diễn bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch COVID-19. Sau khi COVID-19 được kiểm soát, ngành nghệ thuật biểu diễn dần hồi phục và có những đóng góp đáng ghi nhận cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Ví dụ: Chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới của BlackPink 2023 diễn ra tại Thủ đô trong 2 ngày 29 và 30-7-2023 là cơ hội thúc đẩy phát triển công nghiệp văn hóa, góp phần nâng cao hình ảnh Hà Nội – Việt Nam điểm đến an toàn thân thiện của bạn bè thế giới, quảng bá du lịch Việt Nam, đem lại nguồn thu lớn. “Số lượng khách đặt phòng tăng mạnh gấp 2-3 lần ngày thường, đồng thời doanh thu ghi nhận khoảng 600 tỷ đồng” (10).
Các chương trình biểu diễn nghệ thuật, festival và các sự kiện nghệ thuật tạo ra một sức hút lớn đối với du khách. Điều này đặt nền tảng cho sự phát triển của ngành Du lịch và giải trí, giúp tăng cường doanh thu, thúc đẩy tiêu dùng và tạo ra cơ hội việc làm, kéo theo sự phát triển một số ngành khác như: truyền hình, quảng cáo, thiết kế, thời trang… đóng góp vào sự phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia nói chung, của địa phương nói riêng.
Những con số thống kê trên đây cho thấy nguồn thu trực tiếp từ nghệ thuật biểu diễn. Những nguồn thu gián tiếp từ ngành công nghiệp biểu diễn như du lịch văn hóa, thời trang, quảng cáo… chưa được thống kê một cách đầy đủ. Nhưng có thể thấy, ngành nghệ thuật biểu diễn là một trong những ngành quan trọng, là động lực phát triển các ngành công nghiệp văn hóa hiện nay.
4. Một số gợi mở phát triển nghệ thuật biểu diễn trong Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế và các chính sách hỗ trợ, thúc đẩy phát triển nghệ thuật biểu diễn. Hiện nay, Nghị định về hoạt động nghệ thuật biểu diễn là căn cứ pháp lý cao nhất để cơ quan quản lý nhà nước cũng như tổ chức, cá nhân thực hiện quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm cụ thể trong hoạt động nghệ thuật biểu diễn. “Nghị định số 144/2020/NĐ-CP, ngày 14-12-2020 của Chính phủ quy định về hoạt động nghệ thuật biểu diễn được ban hành quy định về hoạt động nghệ thuật biểu diễn trên lãnh thổ Việt Nam và từ Việt Nam ra nước ngoài. Nghị định này áp dụng đối với các đối tượng: Tổ chức, cá nhân Việt Nam hoạt động nghệ thuật biểu diễn trên lãnh thổ Việt Nam và từ Việt Nam ra nước ngoài; Tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia hoạt động nghệ thuật biểu diễn trên lãnh thổ Việt Nam; Tổ chức, cá nhân khác có liên quan” (11). Tuy nhiên, cần tiến tới xây dựng và ban hành Luật Nghệ thuật biểu diễn và các văn bản liên quan để bổ sung và từng bước hoàn thiện thể chế về nghệ thuật biểu diễn, để việc quản lý và phát triển nghệ thuật biểu diễn đạt kết quả cao hơn.
Thứ hai, hỗ trợ tài chính và đầu tư có trọng tâm trọng điểm. Chính phủ nên cung cấp hỗ trợ tài chính và đầu tư cho các dự án, các chương trình nghệ thuật đỉnh cao, các start up trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn. Hỗ trợ tài chính sự kiện, festival nghệ thuật biểu diễn như Monsoon Music Festival, Hozo Festival… Huy động các nguồn lực trong xã hội, các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tham gia hỗ trợ, đầu tư và phát triển nghệ thuật biểu diễn.
Thứ ba, xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng nghệ thuật biểu diễn. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng cho nghệ thuật biểu diễn là quan trọng. Điều này bao gồm việc xây dựng và nâng cấp các trung tâm nghệ thuật, nhà hát, các thiết chế văn hóa ở các địa phương. Xây dựng sân khấu lớn, trang thiết bị hiện đại, đủ để tổ chức các chương trình biểu diễn nghệ thuật mang tầm cỡ quốc tế, đặc biệt ở các thành phố lớn như TP.HCM, Hà Nội, Đà Lạt, Đà Nẵng – những thành phố phát triển thị trường nghệ thuật biểu diễn. Cơ sở hạ tầng nghệ thuật biểu diễn phát triển không chỉ hỗ trợ phát triển nền nghệ thuật biểu diễn của nước nhà mà còn giúp tăng cường giao lưu, hợp tác với nền nghệ thuật biểu diễn của các nước trên thế giới.
Thứ tư, tăng cường giáo dục, đào tạo nghệ thuật biểu diễn: tạo ra các chương trình giáo dục và đào tạo nghệ thuật chất lượng để phát hiện và phát triển tài năng mới trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn; có chiến lược hỗ trợ các cơ sở đào tạo nghệ thuật biểu diễn nâng cao chất lượng đào tạo; đào tạo và đào tạo lại đội ngũ nghệ sĩ và nguồn nhân lực trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn. Bên cạnh đó, cần có chiến lược giáo dục khán giả, phát triển khán giả cho nghệ thuật biểu diễn.
Thứ năm, hỗ trợ nghiên cứu, sáng tạo, thể nghiệm nghệ thuật biểu diễn. Khuyến khích nghiên cứu và sáng tạo, thể nghiệm trong ngành nghệ thuật biểu diễn thông qua việc cung cấp hỗ trợ cho các dự án nghệ thuật độc đáo, sáng tạo, những thử nghiệm mới. Xây dựng các quỹ phát triển nghệ thuật biểu diễn do các cơ quan nhà nước điều phối, tổ chức các cuộc thi, giải thưởng nghệ thuật biểu diễn. Hỗ trợ sự đa dạng và đổi mới trong các thể loại nghệ thuật. Khích lệ nghệ sĩ thử nghiệm và phát triển các hình thức biểu diễn mới để giữ cho ngành nghệ thuật luôn tươi mới và hấp dẫn.
Thứ sáu, tăng cường, chủ động giao lưu quốc tế. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hỗ trợ nghệ sĩ Việt Nam tham gia các sự kiện và hợp tác quốc tế để tạo cơ hội giao lưu, học hỏi từ các nền nghệ thuật khác. Đồng thời, các nghệ sĩ cũng cần chủ động tìm kiếm cơ hội để tham gia các hoạt động nghệ thuật biểu diễn của các nước trong khu vực và thế giới. Điều này giúp nâng cao chất lượng nghệ thuật và tạo cơ hội xuất khẩu các chương trình biểu diễn nghệ thuật của Việt Nam ra thị trường quốc tế. Nâng tầm nghệ thuật biểu diễn Việt Nam.
Thứ bảy, đẩy mạnh quảng bá các sản phẩm/ chương trình biểu diễn nghệ thuật của Việt Nam. Thực hiện các chiến lược quảng bá hiệu quả các sự kiện nghệ thuật và nghệ sĩ Việt Nam thông qua các phương tiện truyền thông như các kênh truyền hình trong và ngoài nước, các trang web, mạng xã hội, festival âm nhạc… Hoạt động quảng bá sẽ giúp tăng cường nhận thức của công chúng, tiếp cận khán giả, giúp phát triển thị trường nghệ thuật biểu diễn, khẳng định vị thế của ngành nghệ thuật biểu diễn Việt Nam, thúc đẩy vai trò phát triển kinh tế, xã hội của nghệ thuật biểu diễn.
Để đến năm 2030, doanh thu của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP và tiếp tục tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội, trong đó ngành nghệ thuật biểu diễn đạt khoảng 31 triệu USD (12), cần phát triển đồng bộ hệ sinh thái cho nghệ thuật biểu diễn phát triển, từ thể chế, chính sách, đầu tư, đào tạo, sáng tạo, khởi nghiệp, truyền thông, quảng bá, đãi ngộ và vinh danh… phát triển ngành nghệ thuật biểu diễn cùng với phát triển đồng bộ các ngành công nghiệp văn hóa khác như: thiết kế, thời trang, truyền hình và phát thanh, quảng cáo, phần mềm, du lịch văn hóa. Đẩy mạnh tính kết nối các sản phẩm của các ngành công nghiệp văn hóa; kết nối sản phẩm nghệ thuật biểu diễn với du lịch văn hóa.
_____________________
1. UNESCO, Cultural Industries – a challenge for the future of culture (Công nghiệp văn hóa – thách thức cho tương lai của văn hóa), Paris, 1982.
2. Từ Thị Loan (chủ biên), Phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, 2017, tr.74.
3. UNESCO, Statistics on cultural industries: Framework for the Elaboration of National Data Capacity Building Projects (Thống kê về các ngành công nghiệp văn hóa: Khung xây dựng các dự án xây dựng năng lực dữ liệu quốc gia), Bangkok, 2007, tr.11.
4. Trần Nho Thìn, Công nghiệp sáng tạo và văn hóa, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2 (158), 2015.
5. O’Connor, J., The definition of the “cultural industries” (Định nghĩa “ngành công nghiệp văn hóa”), Tạp chí Giáo dục Nghệ thuật châu Âu, 2000, tr.15-27.
6. Culture, trade and globalization – Questions and answers (Văn hóa, thương mại và toàn cầu hóa – Hỏi và đáp), UNESCO Publishing 2020, tr.11-12.
7. Từ Thị Loan, Nghệ thuật biểu diễn ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra hiện nay, vanhoanghethuat.vn, 15-11-2021.
8, 12. Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 8-9-2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
9. Bộ VHTTDL, Báo cáo số 34/BC-BVHTTDL ngày 9-3-2021 về Kết quả triển khai, thực hiện Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 8-9-2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, 2021.
10. Minh Hạnh, Hồng Hạnh, Black Pink biểu diễn tại Hà Nội: Thúc đẩy phát triển công nghiệp văn hóa, quảng bá du lịch, baodautu.vn, 26-7-2023.
11. Chính phủ, Nghị định 144/2020/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 14-12-2020 quy định về hoạt động biểu diễn nghệ thuật.
Tác giả: Ths PHẠM NGỌC KHUÊ
Nguồn: Tạp chí VHNT số 563, tháng 3-2024