Lút- vích van Bét-tô-ven là nhạc sĩ thiên tài người Đức, người được mệnh danh ”Vị đại tướng của các nhạc sĩ”. Ông là người kết thúc chủ nghĩa âm nhạc Cổ điển Viên bằng một dấu chấm tròn chĩnh, đồng thời tạo tiền đề cho sự ra đời chủ nghĩa Lãng mạn. Những tác phẩm âm nhạc của Bét-tô-ven được V. I. Lê-nin yêu thích hơn so với sáng tác của nhiều nhạc sĩ khác, bởi vì âm nhạc của Bét-tô-ven mang tính chiến đấu rất cao. Bét-tô-ven cũng đã nói rõ về mục đích âm nhạc của mình: “Âm nhạc cần phải làm cho ngọn lửa trong tâm hồn kiên cường bùng cháy !”. Mỗi lần khi nghe nhạc Bét-tô-ven, Lê-nin thường nhận xét “ Có lẽ không thể nói vào đâu được nữa!”, Người thường khuyên vợ là Kơ-rúp-xcai-a và những người thân cận nên dành thời gian để nghe nhạc của ông. Trong toàn bộ sáng tác âm nhạc của Bét-tô-ven, Lê-nin đặc biệt yêu thích bản Sô-nát số 23 viết cho đàn piano được gọi là Áp-pa-si-ô-na-ta. Bản nhạc là thiên trường ca diễn tả hoàn hảo và sâu sắc về lòng dũng cảm của con người vươn tới chiến thắng vinh quang qua cuộc đấu tranh gian khổ. Một lần khi nghe bản nhạc này, Lê-nin xúc động nói: “Tôi không biết còn tác phẩm nào có thể hay hơn Áp-pa-si-ô-na-ta, tôi sẵn sàng nghe lại bản nhạc này bất cứ lúc nào. Âm nhạc thật là tuyệt vời, quá sức người. Tôi luôn tự hào và có lẽ hơi ngây thơ khi nghĩ rằng, đấy, con người có thể làm nên được những điều kỳ diệu biết bao!”. Câu nói trên được M. Goóc-ki ghi lại và trở thành câu nói bất hủ, một lời nhận xét mẫu mực về những tác phẩm âm nhạc của thiên tài Bét-tô-ven.
* * * * * * * * * * * * * * * * * *
Bét-tô-ven sinh ngày 17 tháng 12 năm 1770 tại thành Bon ở nước Đức, trong gia đình có truyền thống âm nhạc. Từ nhỏ, Bét-tô-ven tỏ ra có tài trong lĩnh vực sáng tác và biểu diễn âm nhạc. Song vì không được học hành có hệ thống và sớm phải tự lo liệu cho cuộc sống, cuộc đời gặp nhiều khó khăn và bất hạnh, về sau lại phải đảm đương cả gánh nặng gia đình. Mặc dù rất tài năng nhưng đến năm 28 tuổi, ông mới là nhạc sĩ nổi tiếng châu Âu.
Vào tháng Năm 1787, chàng thanh niên Bét-tô-ven lần đầu rời xa quê hương sang thành Viên (nước Áo) với mục đích tìm gặp Mô-da để xin học sáng tác âm nhạc. Bét-tô-ven mang theo lá thư của Van-stai, ông này là thầy dạy Bét-tô-ven đồng thời cũng là nhạc sĩ quen biết với Mô-da.
Khi đến Viên và tìm được nơi ở ổn định, một buổi sáng Bét-tô-ven tìm đường đến nhà Mô-da và gõ cửa (người Đức và Áo đều dùng chung ngôn ngữ). May là hôm đó Mô-da đang ở nhà. Mô-da mở cửa và trông thấy một chàng thanh niên dáng người khoẻ mạnh, ánh mắt sáng đầy nhiệt tình. Bét-tô-ven khiêm tốn hỏi:
– Thưa ông, tôi xin được gặp nhạc sĩ Mô-da.
– Chào anh, tôi là Mô-da, có việc gì vậy ?
– Thưa nhạc sư- Bét-tô-ven rút ra lá thư từ trong túi – Tôi đến từ thành Bon và mang theo thư giới thiệu của nhạc sĩ Van-stai.
Mô-da mời Bét-tô-ven vào nhà, anh ngồi xuống ghế, im lặng quan sát căn phòng lúc Mô-da đọc thư của Van-stai. Trong phòng, ngoài Mô-da và Bét-tô-ven lúc đó còn có hai chàng thanh niên, họ là học trò của Mô-da và đang chăm chú làm những bài tập hoà âm.
Mô-da quay lại chỗ Bét-tô-ven khi đọc xong bức thư.
– Chàng trai, vậy là anh theo học với Van-stai đã lâu, như lời ông ấy nói, anh rất có năng khiếu âm nhạc. Có thể cho tôi biết anh đã học được những gì không ?
Vào thời đó, Mô-da là nhạc sĩ nổi tiếng bậc nhất thành Viên. Mặc dù cuộc sống gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn về tài chính, nhưng không phải ai xin học âm nhạc, Mô-da đều đồng ý. Trước khi nhận học trò, Mô-da luôn kiểm tra năng khiếu âm nhạc rồi mới quyết định có đồng ý dạy hay không. Mô-da từng chứng kiến, những ông bố dẫn con đến xin học, đều khẳng định con họ có tài năng về âm nhạc, nếu được Mô-da hướng dẫn chắc chắn sẽ trở thành những nhạc sĩ danh tiếng. Nhiều lần Mô-da phải từ chối vì thất vọng khi chứng kiến những khả năng nghèo nàn của các cậu bé tự nhận là thần đồng đó.
Cũng với sự nghi hoặc đó, Mô-da mời Bét-tô-ven lại cây đàn piano, mở nắp đàn và nói:
– Chàng trai, hãy lựa chọn và chơi bản nhạc nào mà cậu thích nhất !
Hồi hộp ngồi xuống ghế, rụt rè để đôi tay lên phím đàn, Bét-tô-ven bắt đầu chơi bản nhạc mà anh đã chuẩn bị kỹ càng, bản nhạc đòi hỏi kỹ thuật trình diễn công phu, phức tạp. Qua sự lúng túng ban đầu, Bét-tô-ven chơi nhạc say sưa và đầy cảm hứng, anh thầm hy vọng Mô-da sẽ đánh giá cao về kỹ thuật của mình. Nhưng ngược lại, Mô-da tỏ ra không chú ý tới điều đó. Sau một lúc đứng bên cây đàn, Mô-da nhanh chóng nhận ra khả năng và kỹ thuật trình diễn của người thanh niên. Điều đó chưa đủ sức thuyết phục Mô-da vì từ khi còn bé, ông đã thực hiện thành thạo những kỹ thuật này. Trong khi Bét-tô-ven mải miết đánh đàn, thậm chí Mô-da còn bước lại phía người học trò và hướng dẫn anh ta điều gì đó.
Vẫn tiếp tục chơi đàn nhưng Bét-tô-ven cảm thấy tủi thân khi Mô-da không thật sự quan tâm đến mình. Bản nhạc kết thúc, Bét-tô-ven vẫn ngồi yên lặng, lo ngại chờ Mô-da đưa ra lời nhận xét.
– Được đấy chàng trai, anh có nhạc cảm và kỹ thuật tốt, hãy kiên nhẫn luyện tập, có thể anh sẽ trở thành một nhạc công piano giỏi đấy.
Nhạc công ư ? Bét-tô-ven lặn lội từ Bon sang đây đâu phải với mục đích trở thành một nhạc công, anh muốn Mô-da hướng dẫn sáng tác âm nhạc. Tâm hồn Bét-tô-ven đầy ắp khát vọng, bao nhiêu cảm xúc và những điều muốn nói, nhưng có lẽ chỉ âm nhạc mới giúp anh diễn tả được điều đó. Thoáng thất vọng, nhưng Bét-tô-ven vẫn kiên trì:
– Thưa nhạc sư, tôi mong muốn được ngài hướng dẫn về cách thức sáng tác âm nhạc. Ngài có thể ra một chủ đề để tôi ứng tác được không ?
Thấy vẻ nhiệt tình của Bét-tô-ven, Mô-da suy nghĩ giây lát rồi nói:
– Được chứ, anh hãy phát triển chủ đề này xem !
Vào thời gian đó, một nhạc sĩ giỏi phải thể hiện được ba yêu cầu. Thứ nhất, phải biểu diễn xuất sắc những bản nhạc đang thịnh hành, thứ hai, phải sáng tác và biểu diễn thuần thục bản nhạc của mình. Thứ ba, người nhạc sĩ phải có khả năng ứng tác trên nhạc cụ, đây là yêu cầu rất khó với người sáng tạo nghệ thuật. Ứng tác âm nhạc là khi nghe một câu nhạc bất kỳ, người nhạc sĩ phải lập tức sáng tác trên cây đàn thành bản nhạc được trình bày hoàn chỉnh.
Mô-da đánh trên đàn piano một câu nhạc ngắn, nét nhạc mềm mại, tươi sáng thể hiện tính cách và đặc điểm âm nhạc của ông.
Khi tay Mô-da rời khỏi phím đàn, Bét-tô-ven có một thoáng suy nghĩ, liền đó anh đàn lại chủ đề âm nhạc vừa nghe và tự tin ứng tác các câu nhạc kế tiếp, đây là thế mạnh của Bét-tô-ven. Hàng ngày ở Bon, Bét-tô-ven thường hay ứng tác các chủ đề âm nhạc và thật sự có năng khiếu về lĩnh vực này. Anh thể hiện đầy cảm hứng chủ đề âm nhạc của Mô-da và không ngờ, bản nhạc gây nên sự ngạc nhiên với nhạc sĩ nổi tiếng. Bây giờ thì Mô-da không còn lơ đãng như lúc trước nữa mà đang bị cuốn hút bởi khả năng của chàng trai. Từ chủ đề âm nhạc của Mô-da với sự hồn nhiên, tươi tắn, được tâm hồn cháy bỏng của Bét-tô-ven biểu hiện qua tiếng đàn, bản nhạc đã chuyển dần sang một hướng đi mới, rất táo bạo và mới lạ. Ngôn ngữ âm nhạc lúc này khác nhiều so với câu mở đầu, bản nhạc mà Bét-tô-ven đang chơi thể hiện một sự bùng nổ đến mức chói sáng. Mô-da bất ngờ vì khả năng ứng tác tuyệt vời cũng như ngôn ngữ âm nhạc táo bạo của Bét-tô-ven. Cả những học trò của Mô-da từ lúc nào đã không còn ngồi yên nữa, họ bước lại gần cây đàn và chứng kiến nhạc sĩ bậc thầy Mô-da thử tài chàng thanh niên mới xuất hiện, họ sửng sốt và im lặng. Một chàng trai khoảng mười bảy tuổi vừa tới thành Viên, đang chinh phục nhạc sĩ giỏi nhất thế giới. Khi đoạn nhạc lên đến cao trào, dòng âm thanh bùng nổ, không dấu được cảm xúc, Mô-da bất giác đưa bàn tay vỗ nhẹ lên trán như khám phá ra điều gì, nét mặt ông dãn ra biểu lộ sự mãn nguyện.
Bản nhạc kết thúc hồi lâu mà sự ngạc nhiên vẫn chưa hết, mọi người dường như vẫn đang chìm trong dòng chảy của âm thanh, chưa thoát ra để trở về với thực tại. Cả Bét-tô-ven cũng lặng yên như đang chờ đợi lời phán xét của Mô-da. Giây phút đó kéo dài khá lâu vì Mô-da chưa tìm được lời nói để diễn tả tâm trạng của mình, ông đặt nhẹ bàn tay lên vai Bét-tô-ven:
– Chàng trai, hãy nhắc lại tên anh lần nữa.
– Thưa nhạc sư, tôi là Lút-vích Van Bét-tô-ven.
– Bét-tô-ven ư ? Hãy nghe lời tôi- Mô-da nói rành rọt tựa như đang nói với chính mình- Có lẽ anh chẳng phải học thêm gì nữa. Hãy vững tin đi theo con đường mà anh chọn, tôi thấy một ngày không xa, lịch sử âm nhạc sẽ nhắc đến tên anh với cả lòng kính trọng.
Bàng hoàng vì lời nói tốt đẹp đó, Bét-tô-ven cảm thấy tự hào, không còn sự e dè nữa, anh hỏi:
– Thưa nhạc sư, vậy ngài sẽ hướng dẫn tôi cách sáng tác âm nhạc chứ ạ ?
– Chúng ta sẽ nói chuyện đó sau- Mô-da trả lời nhũn nhặn.
Thế là trong lần gặp gỡ đầu tiên đó, Mô-da đã nhận thấy một thiên tài âm nhạc đang tiềm ẩn trong con người Bét-tô-ven. Vì sắp có chuyến đi biểu diễn xa, Mô-da hẹn gặp Bét-tô-ven khi ông quay lại thành Viên. Điều đó làm Bét-tô-ven thấy rất vui lúc anh trên đường trở về nhà trọ.
Tiếc rằng, đó là lần gặp gỡ duy nhất giữa hai nhạc sĩ thiên tài trong lịch sử âm nhạc. Không thể ở lại thành Viên khi Bét-tô-ven nghe tin mẹ ốm nặng, anh vội trở về quê hương nhưng người mẹ thân yêu đã qua đời. Vẫn thiết tha mong được Mô-da dạy bảo, Bét-tô-ven lại sang Viên lần nữa, nhưng lần này Mô-da không có mặt, ông về quê hương để chịu tang cha. Cứ như vậy, khi người này đến Viên thì người kia lại vắng mặt, điều đó làm Bét-tô-ven cảm thấy hối tiếc khi chưa được Mô-da trực tiếp dạy bảo.
Sau đó ít lâu, một tin dữ làm giới nghệ thuật thành Viên sửng sốt. Mô-da đã qua đời ngày 5 tháng 12 năm 1791, trong lúc đang viết dở bản Requiem, Bét-tô-ven đau buồn khôn xiết và luôn than phiền về nỗi bất hạnh của mình là đã không được học người thầy vĩ đại ấy.
– Không bao giờ, không bao giờ tôi lại có thể thấy một nhạc sĩ thiên tài đến vậy !
Bét-tô-ven đau buồn thốt lên khi anh được tin về cái chết của Mô-da.
* * * * * * * * * * * * * * * * * *
Sau khi không có điều kiện được học với Mô-da, Bét-tô-ven có dịp làm quen và được Hay-đơn, một nhạc sĩ nổi tiếng người Áo hướng dẫn. Nhạc sĩ này đã có thời gian dạy âm nhạc cho Mô-da, ông được coi là cha đẻ của nhạc giao hưởng vì trong cuộc đời mình, Hay-đơn đã viết được 104 bản giao hưởng. Tuy nhiên do khác biệt về tính cách cũng như quan điểm âm nhạc, Bét-tô-ven không tiếp thu được nhiều kiến thức từ Hay-đơn.
Một buổi tối năm 1794, tại nhà hoàng thân Lích-nốp-xki, một người bảo trợ của Bét-tô-ven, tác phẩm đầu tiên có giá trị được trình diễn. Gọi là đầu tiên bởi vì nó mang ký hiệu “Ô-pút số 1”. Điều đó chứng tỏ Bét-tô-ven coi những gì anh viết trước đó không đặc sắc lắm.
Trong phòng hoà nhạc lộng lẫy của dinh thự, Bét-tô-ven ngồi trước cây đàn piano, với dáng vẻ xúc động. Mặc dù đã được những thính giả quen thuộc ấy hâm mộ, nhưng lần này anh đến với họ không phải ở cương vị một người chơi đàn giỏi, mà với tư cách một nhà sáng tác âm nhạc. Biết bao nhiêu lần, giới quý tộc ở đây đã từng nghe nhạc của Mô-da và Gơ-luých rồi. Trong căn phòng này, những kỷ niệm về hai bậc thiên tài ấy như còn đang phảng phất đâu đây. Cả Hay-đơn nữa, nhạc sĩ bậc thầy mà ai cũng thừa nhận, đang ngồi bên cạnh nhạc sĩ Xa-lia-ri. Hai người dù lớn tuổi và ăn mặc theo lối cổ, vẫn có dáng điệu trẻ trung. Với sự hiếu kỳ, họ đang chờ nghe tác phẩm của chàng trai, có tài thật đấy nhưng kỳ quái làm sao !
Căn phòng lặng đi khi Bét-tô ven chơi đàn, hai bản nhạc nối tiếp nhau vang lên. Chúng chịu ảnh hưởng của Hay-đơn và được sáng tác theo khuôn mẫu quen thuộc, hai bản này được hoan nghênh nhiệt liệt. Bản thứ ba, ngược lại, đã toát ra phong cách mới lạ đối với người nghe. Lần này, thính giả chia làm hai phái, những người nhiều tuổi chau mày, quay sang nhìn nhau thăm dò, trong khi giới trẻ tỏ ra rất thích thú. Mọi người im lặng chờ xem, Hay-đơn sẽ nói gì?
Hay-đơn đến bên người học trò và hết lời khen ngợi hai bản nhạc đầu tiên. Sau đó ông cúi xuống và nói nhỏ:
– Anh bạn trẻ, nếu anh tin tôi thì hãy từ từ, chưa nên xuất bản bài thứ ba vội. Hơi đột ngột quá đối với thính giả !
Một người khác đã đến và cắt ngang câu chuyện và cả câu trả lời của Bét-tô-ven. Nhưng qua ánh mắt ngỡ ngàng mà anh đang ngước nhìn theo người thầy cao tuổi, người ta đã hiểu được ý nghĩa của chúng.
– Ông già ghen tỵ ! Anh làu bàu một mình.
Sau đó ít lâu, cũng tại nhà Lích-nốp-xky, Bét-tô-ven đã kính tặng vị nhạc sư của mình ba bản Sô-nát viết cho đàn piano. Đó là bản Sô-nát mang ký hiệu “ Ô-pút số 2” để tặng Hay-đơn. Hay-đơn nhận sự đề cao ấy, nhưng phật ý vì Bét-tô-ven không chịu chú thêm dưới chữ ký “ Học trò của Hay-đơn”, ông mỉm cười nói với anh:
– Anh không thiếu tài năng, nhưng còn phải học thêm !
– Nhưng không phải lúc nào cũng học với ông ấy. Bét-tô-ven đi lại gần và nói với một người bạn đang đứng trong góc phòng- Bởi vì ông ấy đã bao giờ dạy cho mình điều gì đâu !
Tuy vậy, va chạm nhỏ ấy không dẫn đến những xích mích nghiêm trọng. Chỉ ít lâu sau, những bản nhạc này của Bét-tô-ven đã được nhà xuất bản in và công bố rộng rãi. Chúng không chỉ đem đến cho Bét-tô-ven những khoản tiền cần thiết mà còn mang lại cho anh danh tiếng và niềm vui sáng tác. Một nhạc sĩ có tiếng người Đức là Cram-mơ đánh giá rất cao những sáng tạo này của Bét-tô-ven, ông mang các bản Sô-nát này sang Luân-đôn và tuyên bố:
-Các bạn, đây là người bù đắp cho chúng ta niềm tin sau cái chết của Mô-da !
* * * * * * * * * * * * * * * * * *
Năm 1798, Bét-tô-ven làm quen với Béc-na-đô là đại sứ Pháp ở áo, lúc này Bét-tô-ven là nhạc sĩ sáng tác bắt đầu có danh tiếng ở thành Viên. Tại nhà của ông đại sứ, Bét-tô-ven gặp gỡ với nghệ sĩ chơi violon rất tài năng người Pháp là Krây-xe. Mến tính tình giản dị, tự nhiên của Krây-xe nên Bét-tô-ven thường hay có các buổi hoà nhạc với ông ta, ông chơi piano còn Krây-xe chơi violon. Bê-tô-ven đã viết tặng Krây-xe bản Sô-nát cho đàn violon và piano, về sau được gọi là Sô-nát Krây-xe, một bản nhạc rất nổi tiếng.
Khi tiếp xúc với Bét-tô-ven, vị đại sứ người Pháp đã đánh giá rất cao về tài năng âm nhạc của ông. Béc-na-đô đề nghị ông viết một bản giao hưởng hoành tráng về người anh hùng của nước Pháp, đó là Na-pô-lê-ông Bô-na-pác – một vị tướng trẻ, đầy tài năng, chỉ huy quân đội hùng mạnh của nước Pháp – Qua những chiến công hiển hách của Na-pô-lê-ông trước các đế chế phong kiến già cỗi, trong suy nghĩ của Bét-tô-ven thì đó là người anh hùng đứng lên đấu tranh vì tự do, bình đẳng, bác ái. Béc-na-đô thuyết phục rằng chỉ có âm nhạc đầy nhiệt huyết của Bét-tô-ven mới diễn tả được sự vĩ đại của Na-pô-lê-ông. Bét-tô-ven đã nhận lời.
Mùa thu năm 1799, Béc-na-đô mời Bét-tô-ven cùng đi nghỉ ở lâu đài Ngọc trai, thời đó là một toà lâu đài nổi tiếng vì sự sang trọng, thuộc miền tây nam nước Áo. Tại đây Béc-na-đô muốn tạo điều kiện để Bét-tô-ven có cảm hứng và bắt đầu sáng tác bản giao hưởng vĩ đại về Na-pô-lê-ông.
Cỗ xe ngựa sang trọng mang quốc huy của sứ quán Pháp đưa đại sứ Béc-na-đô và Bét-tô-ven về lâu đài Ngọc trai. Trời đã về chiều. Con đường hoàn toàn vắng lặng. Cỗ xe chạy qua khu rừng thưa sát với một hồ nước trong xanh. Trên mặt hồ, những tia nắng vàng lấp lánh, những gợn sóng lăn tăn ngời lên như được dát vàng. Chỉ một đoạn ngắn nữa là tới lâu đài. Khi cỗ xe chạy gần tới một chiếc cầu nhỏ, chợt Bét-tô-ven nhìn ra ngoài và thoáng trông thấy bóng một cô gái đứng ven hồ nước. Dường như giật mình vì bất ngờ thấy người lạ, cô gái vội quay đi. Tuy chỉ thoáng qua nhưng Bét-tô-ven cảm thấy đó là một cô gái trẻ, xinh đẹp và quí phái. Bét-tô-ven quay sang phía Béc-na-đô: “Ông có nhìn thấy cô gái vừa rồi không ? Một cô gái tuyệt đẹp, nhưng sao cô ta lại ở bên hồ nước một mình nhỉ ?”
Vị đại sứ nghiêng người nhìn ra ngoài nhưng không thấy gì, lúc đó cỗ xe đang chạy lên cầu, cô gái bị những tán lá ven đường che khuất.
Ít phút sau, cỗ xe dừng lại trong khoảng sân rộng trước toà nhà, Bét-tô-ven bước vào lâu đài nhưng hình ảnh cô gái xinh đẹp bên hồ vẫn hiện lên trong tâm trí ông.
Buổi tối hôm ấy trong lâu đài không khí thật sôi động, viên đại sứ tổ chức một dạ tiệc linh đình chiêu đãi Bét-tô-ven. Mọi người tha thiết đề nghị Bét-tô-ven chơi đàn. Ông nhiệt tình đáp lại bằng cách đàn và hát rất say sưa. Sau đó họ còn cùng nhau khiêu vũ đến tận khuya. Quá nửa đêm, Bét-tô-ven mới trở về căn phòng sang trọng dành cho mình. Ông ngả lưng xuống giường, hi vọng sẽ nhanh chóng chìm vào giấc ngủ để xua tan những mệt mỏi trong ngày. Tuy nhiên, Bét-tô-ven nằm khá lâu mà không thể ngủ được. Căn phòng oi bức, bầu không khí ngột ngạt, ông ngồi dậy và lại bên cửa sổ. Bét-tô-ven vươn người ra ngoài hít thở làn khí mát rượi từ vườn cây. Chà, đứng đây thật là dễ chịu.
Ban đêm khu vườn rất yên tĩnh. Qua khung cửa sổ mở rộng, Bét-tô-ven thấy hiện ra trước mắt một bức tranh tuyệt diệu, khu vườn tràn ngập ánh trăng, ánh sáng mờ mờ huyền ảo trải trên những lùm cây. Vẳng đâu đây vọng lại lúc gần lúc xa những âm thanh mơ hồ hoà với tiếng côn trùng run rẩy. Không khí ngát hương, một mùi hương tinh khiết của cỏ cây hoa lá. Hít một hơi dài, Bét-tô-ven thấy trong lòng thật nhẹ nhõm.
Như có điều gì thôi thúc, Bét-tô-ven mở cửa phòng và nhẹ bước xuống những bậc thang dẫn tới vườn cây. Mọi người trong lâu đài dường như đã ngủ say, các ô cửa sổ đều không còn ánh sáng, một sự yên lặng tuyệt đối bao quanh ông giữa đêm khuya thanh vắng. Bét-tô-ven dừng lại trên thảm cỏ, ông chợt nhớ tới hồ nước trong vắt mà chiều nay cỗ xe đi qua, hình ảnh cô gái xinh đẹp hiện lên trong tâm trí. Nảy ý định tò mò, Bét-tô-ven muốn quay lại hồ nước. Ông nhìn xung quanh và lắng nghe, vẫn yên lặng hoàn toàn, dường như sự tĩnh lặng đang thôi thúc ý định của Bét-tô-ven. Toà lâu đài như chìm dưới ánh trăng đầy mê hoặc. Yên tâm, Bét-tô-ven rảo bước rời lâu đài và đi trên con đường mát rượi ánh trăng. Chẳng bao lâu, ông đã nghe thấy tiếng nước chảy, tiếng sóng vỗ nhè nhẹ dưới chân cầu. Đây rồi, đây chính là nơi mà cô gái ban chiều đã đứng, Bét-tô-ven thầm nghĩ. Ông tiến lại gần một cây sồi già, cách hồ nước không xa. Ở chỗ này, Bét-tô-ven có thể ngắm toàn bộ phong cảnh của hồ nước. Dưới ánh trăng, mặt hồ như rộng thêm ra và đẹp lên gấp bội. Mặt nước phản chiếu ánh trăng long lanh gợn sóng. Ven bờ, một con chim đi ăn đêm đột nhiên vỗ cánh, cỏ cây toả hương ngạt ngào. Dựa vào cây sồi và đưa mắt nhìn ra xa, Bét-tô-ven muốn dứt bỏ những ý nghĩ về cô gái xa lạ nhưng không được. Lạ thật, cô gái là ai nhỉ ? Tại sao lại ở một mình bên hồ nước, cô ta từ đâu tới đây ? Một ảo ảnh chăng ? Hay đó là một nàng tiên cá khao khát cuộc sống trần gian đã hoá thân thành nàng thiếu nữ ?
Cứ vẩn vơ trong dòng suy nghĩ, Bét-tô-ven ngả lưng xuống bãi cỏ ven hồ, gối đầu lên nhánh gốc sồi. Trong tư thế thoải mái, ông ngửa mặt nhìn bầu trời, mặt trăng đang mờ dần, chỉ còn vài vì sao lấp lánh, cây cối lao xao. Bét-tô-ven hít thật sâu và nhắm mắt lại, ông nhanh chóng thiếp đi.
Bét-tô-ven chợt giật mình tỉnh dậy khi thấy những giọt nước đang rơi xuống người. Thì ra trời đã đổ mưa, bầu không khí ngột ngạt lúc trước là dấu hiệu một cơn giông. Rất nhanh nước mưa đổ xuống xối xả. Bét-tô-ven nhỏm dậy và vội cất bước trở về lâu đài. Nhưng đã muộn, cơn mưa to đã làm ông ướt hết áo quần. Chỉ có mưa tuôn và những tiếng sấm rền vang dữ dội khi Bét-tô-ven một mình hối hả trở về lâu đài.
Trong đêm khuya, Bét-tô-ven không muốn phiền ai. Ông cởi bỏ bộ quần áo ướt sũng và hong lên cửa sổ rồi nằm xuống giường. Nước lạnh ngấm vào người làm Bét-tô-ven run rẩy, ông trằn trọc tới gần sáng mới ngủ thiếp đi. Ông đã qua đêm đầu tiên ở lâu đài Ngọc trai như vậy.
Sáng hôm sau, viên đại sứ Pháp ngạc nhiên khi không thấy Bét-tô-ven trong phòng khách. Ông ta lên phòng và thấy Bét-tô-ven nằm trên giường, người sốt cao, bộ quần áo ướt treo bên cửa sổ. Lập tức, viên đại sứ cho gọi bác sĩ tới. Đợt ốm kéo dài hơn mười ngày đã ảnh hưởng nặng đến sức khoẻ của Bét-tô-ven. Sự kiện này làm bản nhạc viết về Na-pô-lê-ông không hoàn thành như dự kiến. Trận ốm dữ dội đó còn mãi ảnh hưởng tới sức khoẻ của Bét-tô-ven cũng như với đôi tai nhạc sĩ về sau này.
Tới năm 1804 bản giao hưởng mới được viết xong, nó là bản số ba trong số chín giao hưởng của Bét-tô-ven. Nhưng khi bản nhạc hoàn thành, thế sự có nhiều thay đổi. Lúc này, Na-pô-lê-ông đã lật đổ dòng họ Buốc-bông để lên ngôi hoàng đế. Thất vọng vì người anh hùng của mình giờ đây cũng chỉ là một kẻ đầy tham vọng và ham muốn quyền lực, Bét-tô-ven liền xoá lời tựa ghi ở đầu bản nhạc “Tặng Na-pô-lê-ông” và thay bằng “ Tặng những người anh hùng”. Bản nhạc về sau được gọi là Giao hưởng Anh hùng, một trong những tác phẩm xuất sắc của Bét-tô-ven.
Về sau, Bét-tô-ven cũng không tìm hiểu thêm về tung tích cô gái ven hồ nước. Đến cuối đời, ông vẫn sống độc thân và phải chăng cô gái là định mệnh trong cuộc đời người nhạc sĩ vĩ đại.
Còn có một sự tình cờ, lâu đài Ngọc trai mà Bét-tô-ven đã từng ở, ngày nay không còn nữa. Toà lâu đài sang trọng ấy đã bị thiêu cháy bởi chính quân lính của Na-pô-lê-ông khi đội quân này tràn vào nước Áo. Chuyện đó xảy ra vào năm 1809, trong cuộc chiến tranh giữa Pháp và các nước Châu Âu.
* * * * * * * * * * * * * * * * * *
Một đêm trăng đẹp giữa mùa thu, tại một thị trấn ở nước Đức, nhạc sĩ Bét-tô-ven dạo bước trên hè phố. Các tháp chuông nhà thờ nhọn hoắt vươn lên nền trời. Cả thị trấn đã chìm trong tĩnh mịch.
Bét-tô-ven nghe vẳng ra từ một ngõ hẻm có ai chơi piano bản Mơ-nuy-ết của mình. Ngạc nhiên, ông rẽ vào ngõ nhỏ và dừng chân trước cửa một ngôi nhà cũ kĩ. Sau một lát lắng nghe, tiếng đàn yên lặng và Bét-tô-ven nghe thấy tiếng nói của người con gái:
-Cha ơi, liệu có đủ tiền mua vé đi nghe hoà nhạc tối mai không?
-Cha đã chữa năm đôi giầy rồi mà chưa đủ tiền. May ra chỉ mua được một vé cho con thôi.
Trong nhà lại im lặng sau tiếng thở dài của người con gái. Như có điều gì thôi thúc, Bét-tô-ven khẽ gõ cửa. Người đàn ông đứng tuổi bước ra mở cửa, còn cô gái vẫn ngồi yên lặng trước đàn.
-Thưa ông, tôi đi qua đây, nghe tiếng dương cầm nên xin phép vào thăm.
-Mời ông vào. Con gái tôi ham thích âm nhạc, nhưng cháu chơi đàn còn kém cỏi lắm!
Bét-tô-ven mạnh dạn:
-Thưa ông, tôi có biết qua âm nhạc, nếu ông và cô cho phép, tôi xin đàn một khúc.
-Ồ thưa ông, xin ông cứ tự nhiên.
Người con gái vội đứng dậy để nhường đàn cho khách, tay cô lần theo thành cây đàn, ánh mắt như nhìn vào vô định. Lúc đó, Bét-tô-ven mới nhận ra đó là một cô gái mù. Niềm thương cảm trào lên trong lòng, Bét-tô-ven chơi đàn với sự xúc động mãnh liệt và tình cảm chân thành, day dứt… Người thợ giầy ngừng tay từ lúc nào và đang đứng cạnh cây đàn.
-Thưa ông, chắc hẳn ông là nhạc sĩ Bét-tô-ven nổi tiếng?- Cô gái mù ngập ngừng hỏi khẽ, chưa thấy câu trả lời, cô chậm bước đến cửa sổ đẩy nhẹ cánh cửa. Ánh trăng vàng tràn vào gian phòng nhỏ. Trên nền trời xanh thẳm có những ngôi sao lấp lánh. Hàng cây dương liễu và những nóc nhà thờ cổ kính hiện ra trước mắt Bét-tô-ven. Nhạc sĩ lướt nhẹ hai tay trên hàng phím đàn, một giai điệu vừa xuất hiện trong đầu. Những âm thanh vang lên bởi cảm xúc chợt đến khi ông chơi đàn trong căn phòng lạ, giữa không gian huyền ảo của ánh trăng và trước sự ngạc nhiên của cô gái mù. Hiếm khi Bét-tô-ven chơi đàn say sưa đến thế, âm thanh bay lên như hoà tan trong ánh trăng, theo làn gió toả khắp màn đêm. Tiếng đàn đã im từ lâu, hai cha con người thợ giầy mới chợt tỉnh.
-Thưa nhạc sĩ Bét-tô-ven, xin cảm ơn ông đã mang ánh sáng đến cho chúng tôi.- Người thợ run run chào vị khách đang bước ra cửa.
-Thưa ông, chính tôi mới là người chịu ơn ông và cô. Tôi xin phép được mời ông và cô tối mai đi nghe hoà nhạc tại nhà hát.
Rời khỏi xóm lao động nghèo, Bét-tô-ven rảo bước về nhà, ông muốn ghi lại nét nhạc vừa xuất hiện. Ngay đêm ấy, nhà soạn nhạc thiên tài đã hoàn thành tác phẩm tuyệt vời: Bản Sô-nát Ánh trăng.
* * * * * * * * * * * * * * * * * *
Khi nhà hát trình diễn vở nhạc kịch Phi-đê-li-ô của Bét-tô-ven, đây là vở nhạc kịch duy nhất của ông. Một nhạc sĩ trẻ vì mến mộ tài năng của Bét-tô-ven đã bán đi tài sản cuối cùng của mình là những quyển sách để mua vé vào xem vở nhạc kịch. Đó là Phrăng Su-be, một người áo còn trẻ và chưa có tiếng tăm gì trong giới âm nhạc thành Viên.
Theo lệ thường, khoảng một tuần Bét-tô-ven ghé qua nhà xuất bản âm nhạc Stay-nơ, là nhà xuất bản lớn ở thành Viên. Ông muốn xem những bản nhạc mới được in và tìm hiểu về giá trị của chúng. Giống như nhiều nhạc sĩ tài năng khác, có thể dễ dàng chơi bản nhạc dù mới được nghe một lần, hoặc chỉ đọc bản nhạc đã cảm nhận được dòng chảy âm thanh, ông thường đọc các bản nhạc một cách chăm chú nhưng ít khi cảm thấy hài lòng. Bét-tô-ven thường hay lẩm bẩm: “Sao lại nghèo nàn thế ! Cũng may mà mình điếc !”
Nhưng không phải Bét-tô-ven chỉ đề cao bản thân mình, với những tác phẩm có giá trị, ông rất trân trọng. Có lần khi cầm tập bài hát của tác giả Phrăng Su-be, nhạc sĩ này phổ nhạc cho những bài thơ của nhà thơ nổi tiếng người Đức là Sin-le. Bét-tô-ven ngạc nhiên về phong cách và ngôn ngữ âm nhạc độc đáo của nhạc sĩ này. Cầm cuốn sách trên tay, Bét-tô-ven vội lại gần ông chủ nhà xuất bản hỏi xem Phrăng Su-be là người như thế nào. Ông ta liền giới thiệu Bét-tô-ven với một chàng thanh niên còn trẻ, đeo kính cận và đứng gần đó. Khi bắt tay Su-be, Bét-tô-ven giữ nhẹ bàn tay anh rồi ôn tồn nói:
– Anh cũng không phải là một người bình thường đâu !
Cảm động, Phrăng Su-be lúng túng:
– Nhạc sư kính mến, tôi đã xem vở nhạc kịch Phi-đê-li-ô của ngài và rất yêu thích nó. Tôi vẫn mong có dịp nào đó được đi theo nhạc sư, dù ở phía sau đằng xa…
– Đừng tự đánh giá thấp mình, chàng trai trẻ. Anh sẽ đi sát tôi ! Bét-tô-ven khuyến khích.
Còn nhớ mấy chục năm trước, Mô-da không nhầm khi nhận định về tương lai của Bét-tô-ven. Lần này Bét-tô-ven cũng đúng khi đánh giá về tài năng âm nhạc của Su-be. Chỉ ít lâu sau, những tác phẩm âm nhạc của Su-be cũng được giới yêu nhạc thành Viên mến mộ. Đây là một người có đầy tài năng trong số các nhạc sĩ nổi tiếng ở thành Viên, được mệnh danh là ông vua của ca khúc. Phrăng Su-be là nhạc sĩ mở đầu cho trường phái âm nhạc mới- chủ nghĩa Lãng mạn trong âm nhạc.
Trong những tài năng lớn của nền âm nhạc thế giới, Su-be là nhạc sĩ có cuộc sống rất ngắn ngủi, một năm sau cái chết của Bét-tô-ven, Phrăng Su-be cũng qua đời, khi nhạc sĩ này mới chỉ 31 tuổi (1797-1828).
Bét-tô-ven từ trần ngày 26 tháng 3 năm 1827 tại Viên. Đám tang của ông có hàng chục ngàn người đưa tiễn, âm nhạc của ông có hàng triệu người ngưỡng mộ, những người biết nắm tay nhau đấu tranh với định mệnh, đấu tranh với những bất công để vươn tới cuộc sống hạnh phúc.
* * * * * * * * * * * * * * * * * *
Tác giả sưu tầm: Quỳnh Anh
(Nguồn: http://www.music.edu.vn/)