Ban nhạc ABBA giờ ra sao sau 40 năm ca khúc ‘Happy New Year’ ra đời?
Gần 40 năm kể từ khi ca khúc nổi tiếng “Happy new year’ ra mắt công chúng, các thành viên ban nhạc ABBA đã không còn sát cánh cùng nhau, mỗi người đều chọn cho mình hướng đi riêng.
“Happy new year” ra đời vào năm 1980, với cái tên ban đầu là “Daddy Don’t Get Drunk On Christmas Day”, vốn không dành để chào đón năm mới. Mãi đến năm 1999, tận dụng việc cả thế giới đang háo hức chuẩn bị bước sang một thiên niên kỷ mới, ABBA chính thức tung ra “Happy New Year” dưới dạng đĩa đơn.
ABBA là ban nhạc pop đình đám nhất từ trước đến nay của Thụy Điển, đồng thời cũng thuộc danh sách những nhóm nhạc huyền thoại của thế giới.
Ban nhạc được thành lập vào năm 1972, tên nhóm được đặt theo tên của các thành viên Agnetha Faltskog, Bjorn Ulvaeus, Benny Andersson và Anni-Frid Lyngstad. Họ chiến thắng trong cuộc thi Eurovision Song vào năm 1974, tạo bước đệm để tên tuổi vang danh khắp thế giới.
Trong suốt con đường sự nghiệp, nhóm tiêu thụ được hơn 380 triệu album và đĩa đơn trên toàn thế giới, trở thành ban nhạc đầu tiên đến từ một quốc gia không nói tiếng anh đạt được thành công rực rỡ ở các quốc gia nói tiếng Anh.
Không chỉ hợp tác với nhau trong âm nhạc, hai cặp nam nữ trong ABBA đã nên duyên vợ chồng. Benny và Anni-Frid kết hôn trong giai đoạn 1978- 1980. Bjorn và Agnetha chung sống với nhau từ năm 1971 – 1979 và có hai con chung, một trai và một gái.
Cùng với các cuộc hôn nhân tan vỡ, ABBA chia tay nhau vào năm 1982. Dù đã “đường ai nấy đi”, nhóm vẫn “bội thu” nhờ phát hành ABBA Gold vào năm 1992, bán được gần 30 triệu bản trên toàn thế giới.
Năm 2018, nhóm tái xuất sau 35 năm để thu âm hai ca khúc “ Still Have Faith In You” và “Don’t Shut Me Down”. Hai năm trước đó, 4 thành viên cũng từng xuất hiện cùng nhau trên sân khấu trong bữa tiệc kỷ niệm 50 năm hợp tác giữa Bjon Ulvaeus và Benny Andersson. Tuy nhiên, họ phủ nhận về khả năng tái hợp.
Agnetha Fatskog
Sau khi ABBA tan rã, Agnetha Fatskog tiếp tục gặt gái thành công với tư cách ca sĩ solo trong giai đoạn 1982 – 1988.
Tuy nhiên, sự nghiệp của giọng ca sinh năm 1950 bị gián đoạn một thời gian dài do loạt biến cố trong cuộc sống.
Năm 2013, Agnetha Fatskog lần đầu tiên xuất hiện trở lại sân khấu trực tiếp sau 25 năm tại BBC Children in Need, song ca cùng Gary Barlow.
Hiện tại, Agnetha đang sống một mình ở một trang trại thuộc ngoại ô thành phố Stockholm.
Anni-Frid Lyngstad
Cũng trở thành nghệ sĩ solo sau khi rời ABBA, Anni-Frid vẫn duy trì được phong độ, với album solo đầu tiên bán được hơn 1,5 triệu bản.
Cô tái hôn với Hoàng tử Heinrich Ruzzo Reuss von Plauen của xứ Plauen vào năm 1992. Tuy nhiên, Heinrich Ruzzo qua đời ở tuổi 49 vào năm 1999 vì bệnh ung thư. Nữ ca sĩ sinh năm 1945 liên tiếp gánh chịu nỗi đau mất người thân khi một năm trước đó, con gái Lise-Lotte thiệt mạng trong một vụ tai nạn xe hơi.
Chồng mất, Anni-Frid được thừa kế gia tài “khổng lồ” được cho là khoản 75 triệu bảng Anh.
Ca sĩ sinh năm 1945 hiện sống cùng bạn đời người Anh Henry Smith trong một ngôi làng nhỏ tại Thụy Sĩ. Frida là một trong những người góp sức mở Bảo tàng ABBA ở Stockholm, Thụy Điển năm 2013.
Benny Andersson và Bjorn Ulvaeus
Benny và Bjorn tiếp tục làm việc cùng nhau sau khi rời ABBA. Hai người đồng sáng tác các vở nhạc kịch đình đám như Chess, Mamma Mia…
Về đời tư, sau khi ly hôn Anni-Frid, Benny tái hôn với Mona Norklit, một dẫn chương trình người Thụy Điển. Cặp đôi có với nhau một con trai.
Nhạc sĩ sinh năm 1946 từng nghiện rượu trong thời gian dài. Đến năm 2001, ông mới cai nghiện thành công. Hiện tại, Benny là người giàu nhất trong nhóm, sở hữu khối tài sản 100 triệu bảng Anh.
Bjorn Ulvaeus cũng tìm được hạnh phúc mới bên nhà báo Lena Källersjö vào năm 1981. Họ có với nhau 2 con gái. Hiện, nhạc sĩ sinh năm 1945 đang sống ở Thụy Điển, và có khoảng 90 triệu bảng Anh. Tuy vậy, cựu thành viên ABBA gặp vấn đề về sức khỏe khi từng tiết lộ bị mắc chứng mất trí nhớ.
Lê Cát Trọng Lý ra MV đầu tiên trong sự nghiệp
Tối 29-9, Lê Cát Trọng Lý gửi tới khán giả MV đầu tiên trong suốt 13 năm làm việc trong ngành âm nhạc của mình.
Lê Cát Trọng Lý – nữ nghệ sĩ với cách sống đặc biệt, mái tóc xoăn cùng đôi mắt tròn luôn là một nhân tố thú vị của âm nhạc Việt Nam đương đại.
Ít khi xuất hiện trên các phương tiện truyền thông nhưng giọng ca Bến vắng vẫn giữ được một chỗ đứng riêng trong lòng công chúng từ những giá trị cô mang tới cho âm nhạc.
Có lẽ vì vậy mà nhiều người thêm bất ngờ trước thông tin sau 13 năm hoạt động trong ngành âm nhạc, đây là lần đầu tiên Lê Cát Trọng Lý ra mắt với khán giả một MV chính thức vào tối qua 29-9.
Ca khúc trong MV là Tám chữ có, một sáng tác cũ của Lê Cát Trọng Lý từ năm 2013, nay được Nguyễn Thanh Tú chuyển soạn và phối khí lại để kết hợp cùng với một đội hợp xướng ở Châu Phi có tên là Kenyan Boys Choir.
Bối cảnh của MV được quay tại hai quốc gia Mauritius và Kenya vào tháng 8-2019. Đây cũng là khoảng thời gian Lê Cát Trọng Lý thực hiện Dreamers Concert 6 tại Nairobi, thủ đô của Kenya.
Lê Cát Trọng Lý chia sẻ về nhóm hợp xướng ở Châu Phi kết hợp cùng cô trong tác phẩm này: “Kenyan Boys Choir là một nhóm hợp xướng gồm 22 thành viên, có nhiều sản phẩm âm nhạc đạt chất lượng khá cao. Họ xuất thân từ nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội, có những người sinh ra, lớn lên và hiện vẫn còn đang sống trong khu ổ chuột lớn thứ hai Châu Phi là Kibera.
Điểm chung duy nhất của họ là màu da và tình yêu dành cho âm nhạc. Khi họ hát, ánh mắt và miệng cười của họ làm Lý quên đi mất sự khác nhau của chúng mình, quên đi mất không gian địa lý và sắc tộc.
Nghe họ hát cứ như từ thiên đàng, mặc dù mình chẳng biết thiên đàng là gì. Trong phút giây hiện tại của âm nhạc đó, Lý thấy tình cảm con người phần nào dính lại được với nhau và quên đi mọi biên giới”.
Thiên nhiên hùng vĩ của châu Phi hiện lên trong MV Tám chữ có với những thảo nguyên rộng ngút ngàn, bầy hươu cao cổ thong dong gặm cỏ và cả những cánh chim sải cánh trắng cả một góc trời.
Những góc máy bình dị, đơn sơ nhưng vẫn diễn tả được đầy đủ sự thênh thang, rộng lớn và hoang dã đến choáng ngợp của châu lục này. Giữa khung cảnh ấy, cô gái bé nhỏ ôm cây đàn guitar và ngân lên những giai điệu trong trẻo rất đỗi yên bình, bên dưới những tán cây khổng lồ và cạnh bầy ngựa vằn ngơ ngác.
Một khán giả để lại bình luận: “Hình ảnh ấy thật đẹp, người nghệ sĩ say sưa hát với thiên nhiên, với đồng cỏ, với muông thú và với cả những người bạn khác màu da. Trong khoảnh khắc ấy, tất cả ranh giới như biến mất, chỉ còn cái đẹp của nghệ thuật là hiện hữu”.
MV mới của Lê Cát Trọng Lý có thể sẽ không lọt vào top trending hay đạt kỷ lục hàng triệu lượt xem sau 12 giờ ra mắt, nhưng chắc chắn đó sẽ là một gam màu đẹp đẽ, đáng trân trọng trong bức tranh âm nhạc Việt Nam đương đại.
Đồng thời, Tám chữ có cũng chính là món quà ngọt lành, ý nghĩa mà nữ nghệ sĩ gốc Đà Nẵng dành tặng cho những người yêu mến âm nhạc của mình sau nhiều tháng ngày chờ đợi.
Được biết, dự án Dreamers Concert World Music của Lê Cát Trọng Lý gồm có 10 ca khúc được viết mới lẫn chuyển soạn lại để kết hợp cùng với các nghệ sỹ ở Mông Cổ, Bhutan và Châu Phi trong suốt 4 năm qua.
Khán giả sẽ được nghe bắt đầu từ ca khúc Tám chữ có. Các ca khúc còn lại sẽ không phát hành album mà được đăng tải miễn phí trên kênh Youtube của Lê Cát Trọng Lý để tất cả mọi người cùng nghe.
THÔNG BÁO: Trang WEB đã được nâng cấp
Trang website chính thức của Hội âm nhạc Hà Nội đã được nâng cấp và đưa vào hoạt động. BBT đã tạo thêm Kênh Youtube: Hội âm nhạc Hà Nội. Đây là Kênh sẽ quảng bá các chương trình, tác phẩm của các nhạc sĩ hội viên. Vì vậy các hội viên có thể gửi tác phẩm và các đường link tác phẩm của mình đã có sẵn trên Youtube về cho BBT vào hòm thư: hoiamnhachn@gmail.com
Các nhạc sĩ, hội viên có thể cập nhật thông tin trên website chính của Hội Âm nhạc Hà Nội.
Trân trọng cảm ơn!
BBT
Âm nhạc dân tộc chứa đựng những câu chuyện tâm linh
Giáo sư Trần Văn Khê từng nói về nghệ sĩ Đức Dậu như sau: “Chỉ có niềm đam mê âm nhạc dân tộc cháy bỏng và tuyệt đối mới có thể vẽ ra chân dung một nghệ sĩ Đức Dậu như ngày nay – người dám mạnh dạn tự bỏ tiền bạc, công sức của bản thân để nuôi dưỡng niềm đam mê không ngừng lớn mạnh trong việc sưu tầm nhạc cụ, nhất là bộ sưu tập khổng lồ nhạc khí từ Tây Nguyên.
Đồng thời, niềm đam mê âm nhạc cũng thể hiện một cách nghiêm túc trong việc chịu khó tìm tòi học hỏi để nắm vững kỹ thuật biểu diễn từ những nghệ nhân sành sỏi các nhạc cụ mà Đức Dậu sưu tầm được”.
Hiện bộ sưu tập nhạc cụ cổ của người nghệ sĩ này đã có đến hàng trăm loại trống và bộ gõ lớn nhỏ, từ trống Tây Sơn, trống H’go Êđê, trống Cao Lan, trống chầu, trống vỗ đến mõ chùa, mõ trâu…
Có những chiếc trống cổ Tây Nguyên đã hơn 200 năm tuổi, được làm bằng da trâu rừng và vẫn còn lưu vết máu trong lễ hội đâm trâu tế thần.
Chúng tôi bắt đầu câu chuyện với nghệ sĩ Đức Dậu bằng một câu hỏi: “Bộ sưu tập nhạc khí cổ đồ sộ của ông được hình thành trong bao lâu?” và ông trả lời:
Tranh: Hoàng Tường |
– Tôi đã mày mò, tìm kiếm và làm thành bộ sưu tập nhạc khí cổ hiện tại trong ba mươi năm qua. Những nhạc cụ này đều được chủ nhân (đa số đã qua đời) xem như bảo vật thiêng liêng, là phương tiện giao tiếp với thần linh, với đất trời nên không phải cứ có tiền là mua được. Tôi may mắn có được cái duyên mới thỉnh được những bảo vật này về.
* Hẳn mỗi nhạc cụ như vậy đều khiến ông phải mất nhiều thời gian và công sức?
– Đúng vậy! Nhiều khi, để có một chiếc trống cổ, tôi phải lưu lại các buôn làng đến năm, bảy năm trời, cố gắng thuyết phục các già làng, già bản.
Tôi phải sống và học cách chơi một cách chăm chỉ để chứng tỏ tấm lòng, nhiệt huyết và khao khát của một người yêu âm nhạc dân tộc cháy bỏng, đồng thời nắm cho được linh hồn nhạc khí đó, thấm nhuần âm sắc của nó như chính người con của làng bản. Sau đó, khi đã được phép của chủ nhân, tôi mới làm lễ rước vật báu về.
* Có khi nào ông bị từ chối, không được chủ nhân truyền nghề hoặc không thỉnh được loại nhạc cụ mà ông thích?
– Có chứ, vì có những nhạc cụ là kỷ vật linh thiêng của một dòng họ hay một tộc người, gắn bó với mấy trăm năm sinh tồn của dòng họ, mang trong mình giá trị lịch sử lớn lao nên bà con đâu dễ gì cho tôi thỉnh về.
Với những trường hợp ấy, tôi luôn tỏ thái độ trân trọng. Đến lúc chủ nhân nhận thấy rằng trong dòng họ không còn ai có khả năng gìn giữ bảo vật tốt bằng tôi, khi ấy họ sẽ trao cơ hội cho tôi. Để “đến lúc chủ nhân nhận thấy…” ấy, chắc chắn ông đã phải bỏ công tìm hiểu cặn kẽ nguồn gốc, lịch sử và cả cách diễn tấu các nhạc cụ đó…
Như tôi đã nói, đồng bào các dân tộc xem những chiếc chiêng trống, đàn cổ là phương tiện giao tiếp với thiên nhiên, với thánh thần, nên những bài diễn tấu của họ chính là văn hóa tâm linh, là tinh thần, là lịch sử nguồn cội của họ.
Mỗi nhạc cụ là cả một chuỗi những câu chuyện văn hóa, tâm linh. Nhạc cụ phải thể hiện được tất cả những ý nghĩa như vậy thì mới đúng là bảo vật, nếu không chỉ là những vật vô tri vô giác.
Âm nhạc sinh ra từ cuộc sống tinh thần, từ đời sống tâm linh. Người nghệ sĩ chơi nhạc dân tộc phải cho người xem, người nghe thấy được tinh thần, tình cảm, hồn thiêng trong những tác phẩm diễn tấu. Đó không chỉ là tiếng kẽo kẹt võng đưa trưa hè, tiếng vó ngựa lốc cốc trên rẻo cao, tiếng suối chảy róc rách…, mà còn mùi hương trầm, mùi xác pháo ngày tết…
* Có lẽ vì vậy nên nhiều người nước ngoài có dịp nghe ông biểu diễn đã nhận xét rằng ông mang được cả thiên nhiên núi rừng đến với người nghe?
– Đó chính là yếu tố tâm linh trong âm nhạc dân tộc. Mỗi khi biểu diễn, tôi không chỉ đơn thuần gõ trống, gõ cồng chiêng, đánh đàn, thổi sáo, mà cố gắng mang lại một không gian với mưa, gió, chim hót, tiếng giã gạo trong đêm khuya, cả những mùi khói, mùi rơm rạ cho người thưởng thức.
Cây đàn Cha pi trong bộ sưu tập của NS Đức Dậu |
Tôi muốn khán giả trong nước và nước ngoài không chỉ nghe, mà còn nhìn thấy, còn ngửi được không gian đó thông qua cách thể hiện của mình.
Cái hồn của âm nhạc dân tộc kỳ diệu lắm. Nếu lắng nghe, âm thanh của tiếng lạc ngựa sẽ kể cho chúng ta nghe câu chuyện về một đôi vợ chồng trẻ xuống chợ buổi sớm.
Sau một ngày vui vẻ uống rượu với bạn, người chồng say đến ngủ quên. Cô vợ sẽ dìu chồng nằm vắt vẻo trên lưng ngựa để đưa về nhà. Tiếng lạc ngựa đều đều như tình yêu dịu dàng của người vợ với chồng vậy.
* Giáo sư Trần Văn Khê nói rằng ông biết làm cho những vật vô tri vô giác bình thường trong thiên nhiên tưởng chừng vẫn ngủ vùi lặng im nay trở mình thức giấc, cất lên giọng nói, giọng ca đặc trưng, đầy hơi thở tự nhiên của chính nó mà không cần có sự phụ họa của bất kỳ nhạc cụ nào. Đó phải chăng là nhờ yếu tố tâm linh?
Đúng vậy! Tâm linh ở đây có nghĩa là tinh – khí – thần của con người. Văn hóa tâm linh là hình thái văn hóa của một tộc người, bao gồm tôn giáo, tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian và một phần của sáng tạo khoa học, nghệ thuật như sự thăng hoa, cảm hứng sáng tạo…
Âm nhạc dân tộc mang tính nhân văn, lấy con người làm trung tâm, thể hiện lòng yêu thương con người, cầu mong quốc thái dân an, mở rộng lòng bác ái, từ bi, hỷ xả, triết lý sống gắn bó với thiên nhiên…
Những nhạc khí dù đơn sơ, xù xì, gồ ghề bằng tre nứa, đá tảng nhưng vẫn mang trong mình tiếng nói của núi rừng, của sức mạnh dân tộc bốn ngàn năm văn hiến.
Tôi tin rằng chỉ có người sống đúng với chữ “đạo” mà ông cha ta răn dạy thì mới nắm bắt được yếu tố tâm linh trong âm nhạc dân tộc, mới có thể biểu diễn và hòa âm nhạc của các dân tộc lại với nhau.
* Và ông cùng Đoàn nhạc gõ Phù Đổng đã hòa nhập được âm nhạc của 54 dân tộc Việt Nam?
Gia đình NS Đức Dậu |
– Cho tôi được giới thiệu một chút về Đoàn nhạc gõ Phù Đổng – đoàn nhạc dân tộc đầu tiên ở Việt Nam do các nghệ sĩ anh chị em ruột trong một gia đình cùng nhau xây dựng.
Chúng tôi thành lập đoàn từ năm 1980 và bắt đầu vào TP. Hồ Chí Minh biểu diễn từ năm 1986. Thật may vì các anh em trong gia đình chúng tôi đều mê nghệ thuật dân tộc, nhất là các nhạc cụ cổ. Nhờ đó, chúng tôi có thể mang âm nhạc dân tộc đi khắp mọi miền đất nước và ra nước ngoài.
Mỗi loại nhạc cụ của mỗi dân tộc có một nét độc đáo riêng. Nét độc đáo đó khi được biểu diễn đơn lẻ thì tạo nên âm sắc đặc trưng của từng tính cách, từng nét sinh hoạt của một dân tộc, còn khi biểu diễn trong một dàn nhạc thì lại tạo một không gian văn hóa vô cùng sống động.
Sẽ là một thiếu sót lớn nếu tôi và các anh em trong đoàn nhạc không tập hợp các nhạc khí của 54 dân tộc anh em để tạo thành những tác phẩm âm nhạc rất Việt Nam!
* Cách đây không lâu, ông đã khiến nhiều khán giả trẻ bất ngờ khi cho các nhạc cụ dân tộc hòa thanh với các nhạc cụ hiện đại. Nhiều người thắc mắc làm sao ông có thể kết hợp nhạc cụ cổ với guitar, organ linh hoạt đến thế?
– Ông cha ta ngày trước đã có kiểu đánh ngẫu hứng, mạnh mẽ trong các bản đờn ca tài tử rồi đấy chứ. Ngày nay, tôi chỉ góp nhặt và biểu diễn với tất cả tâm tư tình cảm của mình mà thôi. Tôi cho rằng tất cả các nhạc khí dân tộc đều có thể kết hợp với các dụng cụ âm nhạc hiện đại.
Cả dàn nhạc với sự biến đổi khôn lường của cường độ, tốc độ, bên cạnh đó là sự pha trộn màu sắc thông qua sự kết hợp các bộ (bộ dây, bộ gỗ, bộ đồng, bộ gõ…) sẽ từng bước hình thành nên một trường phái âm nhạc đề cao các tư tưởng lớn của thời đại.
Trách nhiệm của những người nghệ sĩ là hòa trộn chúng để mang quá khứ lịch sử về với hiện tại và gắn hiện tại với tương lai. Nhiệm vụ này dĩ nhiên không thể làm trong ngày một ngày hai, mà phải theo từng bước, tuy nhiên cũng không thể chậm trễ vì âm nhạc dân tộc đóng vai trò lớn trong văn hóa dân tộc.
* Ông có tin tưởng rằng âm nhạc dân tộc sẽ giúp Việt Nam giữ vững văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc?
– Chắc chắn như vậy. Mỗi dân tộc đều có một tiếng nói riêng, một cốt cách riêng được phản ánh thông qua những giá trị tinh thần và vật chất cụ thể, đó chính là bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc.
Âm nhạc làm cho sức mạnh con người của từng dân tộc bền vững, từ đó bản sắc dân tộc không những không phai mờ theo thời gian, mà còn trở nên đậm đà hơn.
Từ ngàn xưa đến nay, từ trong những trận đánh hào hùng của dân tộc, hào khí trong con người Việt vẫn bộc lộ qua hồn của tiếng trống, tiếng chiêng.
Ngày nay, tôi cố gắng sưu tầm nhạc khí của 54 dân tộc vì muốn lưu giữ lại cái hào khí một thời của cha ông, cũng là nét tâm linh không thể thay thế được của từng vùng miền, từng dân tộc.
Tiêu chí để có thể giữ được bản sắc văn hóa quốc gia là tìm ra được nét riêng, nét độc đáo của một nước. Nếu hỏi văn hóa Việt Nam độc đáo nhất là gì, tôi sẽ trả lời ngay đó là trống và bộ gõ. Chẳng phải cố nghệ sĩ Nguyễn Xuân Khoát từng nói rằng Việt Nam là một quốc gia tỉ phú về bộ gõ đấy sao? Trống và bộ gõ nói chung là một trong những nhạc cụ ra đời sớm nhất.
Sau đó, con người thổi hồn mình, lòng mình vào tiếng trống. Con người trò chuyện với thần linh, hô mưa gọi gió nhờ tiếng trống. Bởi tiếng trống là “siêu giai điệu”, “siêu hòa thanh”, màu âm của trống vang lên có thể mô tả được tất cả hỷ, nộ, ái ố, ai, lạc dục…
Không ai có thể phủ nhận được giá trị lịch sử, giá trị nhân văn của nền âm nhạc dân tộc. Liệu Việt Nam có thể vượt qua khỏi đêm trường ngàn năm Bắc thuộc, vượt qua những khúc quanh cam go, khắc nghiệt của chiến tranh nối tiếp chiến tranh và lịch sử dựng nước và giữ nước của dòng dõi Lạc Hồng nếu không có những hồi trống giục giã ba quân, không có những làn điệu hát ru, hát đồng dao, hát giao duyên, hát mừng nhà mới, mừng được mùa… của 54 dân tộc anh em trên khắp mọi miền Tổ quốc?
* Liệu tâm hồn của mỗi người có trong trẻo, đẹp đẽ nếu chưa từng được nghe qua những giai điệu tinh tế của tuồng, chèo, cải lương, ca Huế, chầu văn, quan họ?
Một góc “Bảo tàng” của NS Đức Dậu |
– Chính những điệu hò, ví, lý, vè đặc sắc của mỗi vùng đất đã tạo nên vẻ đẹp lấp lánh, hun đúc nên hồn thiêng dân tộc. Đó chính là ý chí Việt Nam, tâm hồn Việt Nam qua mọi thời đại, qua mọi thăng trầm mà vẫn giữ được cốt cách của dân tộc mình.
Ở âm nhạc dân tộc có đầy đủ các chuẩn mực nghệ thuật làm cho người nghe rung động, đầy đủ các thể loại cho từng lứa tuổi cảm nhận, có tiếng nói riêng, đặc trưng ngôn ngữ riêng.
Âm nhạc dân tộc xóa bỏ mọi rào cản về ngôn ngữ và văn hóa, chúng ta tự hào đứng cùng thế giới một phần lớn là nhờ âm nhạc dân tộc đầy bản sắc của chúng ta.
Như vậy, âm nhạc là tiếng nói thiêng liêng của giống nòi, là sự sinh tồn, hưng thịnh của ngày mai. Tiếc là có vẻ như giới trẻ hôm nay vẫn chưa quan tâm đúng mức đến âm nhạc dân tộc, đang để âm nhạc dân tộc mai một dần.
* Nhiều người cho rằng âm nhạc dân tộc rất khó học và không được dạy phổ biến…
– Không phải muốn học âm nhạc thì phải vào nhạc viện. Hơn nữa, nhiều nhạc cụ lại không thể dạy trong trường nhạc. Nếu muốn học kèn lá, cồng chiêng, nhất định bạn phải lên Tây Nguyên, phải lắng nghe hơi thở đất trời, đặt tai mình trên đất để nghe tiếng nói từ đất mẹ…
Âm nhạc dân tộc thật ra không khó. Nếu người học chịu đầu tư nghiên cứu, có đủ thời gian và tâm huyết để nắm được hồn, hương vị và cả yếu tố tâm linh thì sẽ thành công.
* Ông đã rất tâm huyết trong việc mang âm nhạc dân tộc đến với thế hệ trẻ, trong đó đặc sắc nhất là bài Trống hội khai trường mà ông đang phổ biến cho các trường học. Phản ứng của học sinh đối với các chương trình ấy ra sao, thưa ông?
– Trẻ em chỉ yêu âm nhạc dân tộc khi được sống trong không gian âm nhạc dân tộc. Bản thân tôi cũng vậy, tôi mê nhạc dân tộc từ nhỏ vì quê hương Hà Tây của tôi là vùng đất của lễ hội đình làng với kèn, trống vật…
Ngày trước, ngay bên cạnh nhà tôi là một nhà hát chèo. Tiếc là hiện nay trẻ em ít được cha mẹ cho nghe những giai điệu đẹp của nhạc dân tộc nữa, mà thay vào đó là âm nhạc hiện đại, dễ dãi thường thấy.
Mấy năm qua, tôi vẫn thường xuyên được một số trường học mời đến biểu diễn và giới thiệu các loại nhạc cụ dân tộc để các học sinh có thêm sự hiểu biết và niềm yêu thích. Khi chúng tôi biểu diễn, các em rất thích thú, chăm chú theo dõi nên người nghệ sĩ cũng cảm thấy phấn khởi.
Nhưng có điều, số trường chú trọng việc đưa âm nhạc truyền thống vào học đường còn chưa nhiều. Chúng tôi cũng chủ động đưa những loại nhạc cụ dân tộc độc đáo đến các tụ điểm, sân khấu và cũng được khán giả yêu thích.
Trống là một nhạc khí có ý nghĩa lịch sử lớn của dân tộc, có thể là phương tiện để giáo dục về văn hóa lịch sử cho học sinh. Vì vậy, tôi đang khuyến khích mỗi trường xây dựng một bộ trống (tối thiểu là mười cái) để tiếng trống góp phần vào sự nghiệp giáo dục đạo lý cho các em.
Bài Trống hội khai trường là một phần trong chương trình này. Tôi đã biên soạn thành công và được các học sinh Trường Thực nghiệm Tây Ninh, Trường Trung cấp Du lịch và Khách sạn Saigontourist áp dụng biểu diễn sau lễ chào cờ.
* Trong bộ sưu tập của ông có rất nhiều nhạc cụ quý hiếm từ Tây Nguyên, đặc biệt là những chiếc chiêng, trống hàng trăm năm tuổi. Ông mất bao nhiêu thời gian để có thể hiểu và biểu diễn nhuần nhuyễn các nhạc khí đó?
Bộ nhạc cụ trong “Bảo tàng” của Đức Dậu |
– Cồng chiêng không chấp nhận những ai chưa từng sống ở núi rừng, chưa biết hồn của núi rừng, chưa biết hồn cây, hồn trâu, hồn lúa… Tôi phải sống nhiều năm với người Êđê, Bana, Brâu, Giarai, Sêđăng, T’riêng… để học và cảm nhận cách ứng xử cồng chiêng của từng dân tộc.
Tiếng chiêng của người Êđê làm ma quỷ không hại người, tiếng cồng chiêng của người Brâu là tiếng nói của thần linh, tiếng cồng chiêng của người T’riêng lại là hiện thân của Mặt trăng…
Cồng chiêng là một sinh hoạt văn hóa nguyên hợp có tính chất tín ngưỡng, tâm linh và nghệ thuật cộng đồng. Tiếng cồng chiêng đi cùng năm tháng với niềm vui vụ mùa và nỗi lo hạn hán, mất mùa. Ngoài giá trị âm nhạc, cồng chiêng tự nâng mình lên thành tâm thức với những bí ẩn về quan niệm, tư duy, mô thức ứng xử cộng đồng và với tự nhiên, với thế giới siêu nhiên.
Mỗi khi tiếng cồng chiêng vang lên là lúc từng thành viên trong cộng đồng có thể nghe thấy được những điều không nói ra và nhìn thấy, cảm nhận được những thứ vô hình.
* Có phải vì giá trị tín ngưỡng và tâm linh như vậy nên năm 2005, cồng chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể, cần được bảo vệ?
– Cái chúng ta cần bảo vệ chính là không gian sinh sống của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, nơi núi rừng hùng vĩ với bến nước, nhà sàn, những phiên chợ vùng cao… hơn là những chiếc chiêng, chiếc cồng cổ mà chúng ta cho là quý giá.
Nếu không còn không gian sinh sống, không còn những lễ tục gắn liền với đời người, cây trồng thì nền văn hóa cồng chiêng cũng sẽ mất đi, bởi sẽ không còn nền tảng nơi chúng sinh ra và được nuôi dưỡng qua bao thế hệ.
* Xin cảm ơn ông về buổi trò chuyện này!
TÁC GIẢ: XUÂN LỘC
THÔNG BÁO HOÃN SINH HOẠT HÀNG THÁNG
Do tình hình dịch bệnh COVID-19, bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus corona từ thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc vẫn đang diễn biến phức tạp. Vì vậy các lịch sinh hoạt hàng tháng của các Hội viên Hội Âm nhạc Hà Nội tạm thời dừng lại. Các thông tin sẽ được BBT cập nhật trên trang Web và Face book của Hội.
Chúc các nhạc sĩ, hội viên dành thời gian ở nhà để đề phòng chống dịch bệnh và đảm bảo sức khỏe tốt.
Trân trọng!
T/M BCH
Mạn đàm về âm nhạc Phật giáo
Nét đặc thù của âm nhạc Phật Giáo là không đưa ra điệu nhạc nào bắt buộc, mà tùy theo trường hợp địa phương, ngôn ngữ mà tùy duyên, vì vậy, các nhà nghiên cứu âm nhạc cho rằng âm nhạc trong Phật Giáo Đông phương có nhiều chất thơ.
Trong thời kỳ đầu của Phật Giáo âm nhạc là lĩnh vực không được nói đến nhiều, càng không được đề cao hay khuyến khích. Điều này cũng không lấy gì làm lạ, bởi lẽ Đức Phật khuyên dạy đệ tử không nên mê đắm vào âm nhạc vì nó có thể làm mê đắm người nghe, sinh rối loạn tâm trí, gây chướng ngại cho việc thực hành thiền định. Cụ thể hơn trong kinh Phạm Võng cũng có những đoạn khuyên dạy các Tỳ Kheo như vậy. Hay trong mười giới mà một vị thọ giới sa di cần phải giữ, có ghi “bất ca vũ xướng kỹ cập cố vãng quan thính”. Không riêng gì âm nhạc, tất cả những sắc thanh hương vị xúc nào, nếu tiếp xúc, gây trở ngại cho việc phát triển tâm linh thì đều được khuyên cần nên tránh xa.
Vào thời đức Phật, âm nhạc là môn nghệ thuật được sử dụng phổ biến trong hoàng cung, ở các lễ hội, trong những nghi thức liên quan đến tế lễ, tang ma, và cả trong những buổi cầu nguyện tại các đền thờ. Âm nhạc cổ truyền Ấn Độ thiên về cầu nguyện, những loại nhạc cụ được ưa chuộng như là những loại đàn dây, trống nhỏ hay sáo… Mục đích biểu diễn của âm nhạc thời kỳ này là làm vui lòng các thần linh, cũng như ở khía cạnh triết học là để hòa hợp Atman với Brahman (tự ngã và toàn thể)
Với giáo lý vô ngã, hẳn một thứ âm nhạc mang ý nghĩa triết học như vậy sẽ không phù hợp với Phật giáo. Vì thế mà trong truyền thống Phật giáo thời kỳ đầu, các tỳ-kheo tụng đọc kinh kệ là nhằm mục đích ôn lại lời Phật dạy, một hình thức lưu truyền kinh điển theo dạng truyền khẩu, chứ không phải tụng niệm là để cúng dường đức Phật hay mang một ý nghĩa triết học nào đó.
Mặc dù đức Phật không cho phép các Tỳ Kheo xem nghe hay đàn ca múa hát nhưng Ngài không coi âm nhạc cũng như người thực hiện nó là điều hoàn toàn không tốt. Bởi lẽ trong Jākata, chuyện số 243, đã kể lại rằng trong một tiền kiếp, đức Phật từng là một nhạc sĩ tài giỏi, tiếng đàn của Ngài còn hay hơn cả thiên nhạc và nhờ tiếng đàn đó mà Ngài đã cảm hóa được người khác. Bên cạnh đó, Phật Giáo ra đời ở nơi mà âm nhạc trở thành một nền văn hóa, gắn liền với nhiều sinh hoạt trong đời sống con người thì việc chịu ảnh hưởng là điều không tránh khỏi. Theo thời gian, hình thức tụng đọc kinh điển đã dần thay đổi và cách nhìn về âm nhạc cũng khác đi khi Phật giáo Đại thừa sinh khởi. Tại một thời điểm khác, với ngữ cảnh văn hóa khác, Phật giáo đã có những phát triển để thích ứng với hoàn cảnh xã hội mới; và âm nhạc, tuy các kinh điển Đại thừa không khuyến khích, nhưng đã được xem như một trong những “lễ phẩm” cúng dường đức Phật.
Cuối thế kỷ hai mươi, tân nhạc Phật giáo Việt Nam xuất hiện một hình thái mới với sự ra đời các bản thiền ca của nhạc sĩ Phạm Duy. Những bản thiền ca của Phạm Duy vừa đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp sáng tác của ông, nhưng cũng là điểm mốc trong tân nhạc Phật giáo. Nhạc thiền của ông, cũng như nhạc thiền của các nhạc sĩ các nước, mong muốn đem đến cho người nghe sự thư thái, bình thản trước mọi sự được mất.
Gần đây, âm nhạc Phật giáo Việt Nam lại có một bước tiến mới trong thể loại với sự ra đời bản giao hưởng Khai Giác của nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo được trình bày trong lễ bế mạc Đại lễ Phật đản Liên hiệp quốc – Vesak 2008. Với việc biên soạn và dàn dựng công phu, Khai Giác đã ít nhiều có được tiếng vang, ít ra là trong giới Phật giáo, về sự mới lạ trong ca từ, nhạc điệu và sắc thái triết học của nó.
Như vậy, âm nhạc Phật giáo đã có một quá trình để hình thành cho đến ngày nay. Theo GS TS Nguyễn Thuyết Phong, tại một buổi thuyết trình tại ĐH Harvard, ông khẳng định đạo Phật có một nền âm nhạc thâm thúy, đóng góp rất lớn cho thế giới. Nền âm nhạc ấy nhắm đến mục đích là sự giải thoát, trí tuệ. Nền âm nhạc ấy hết sức phong phú và mang bản sắc độc đáo của một dân tộc và địa phương.
Thiên nhân hợp nhất: Cảnh giới cao thượng của âm nhạc cổ đại
Sư Khoáng tự là Tử Dã, là người ấp Dương nước Tấn thời Xuân Thu. Ông là người tinh thông âm nhạc, giỏi diễn tấu các loại nhạc cụ và là nhạc sỹ kiệt xuất trong lịch sử Trung Quốc. Ông được người đời sau tôn xưng là “Thánh nhạc”. Tư tưởng kính trời, yêu dân và câu chuyện về tài nghệ chơi đàn sinh động truyền cảm của ông còn được lưu truyền đến ngày nay.
Sư Khoáng đã hấp thụ tinh hoa của lý luận âm nhạc Nho gia, đó là “Lễ tiết dân tâm, nhạc hòa dân thanh” (Dùng lễ để tiết chế lòng dân, dùng nhạc để làm tiếng nói của dân được an hòa). Ông còn kế thừa truyền thống văn hóa Lễ Nhạc mà Chu Công thời Tây Chu đã khởi xướng, yêu cầu sáng tác nhạc phải thuận với đạo trời và tự nhiên, phải thông qua nội hàm đạo đức của âm nhạc để thiện hóa lòng người, đạt được hiệu quả giáo dục cảm động sâu sắc lòng người và làm phong tục tập quán trở nên tốt đẹp. Từ đó mà thể hiện được sự hài hòa giữa con người và tự nhiên, trời đất. Đây cũng là tư tưởng “Thiên nhân hợp nhất” của người xưa.
Theo Sư Khoáng, nếu như mới chỉ là giai điệu tiết tấu cùng hợp tấu ăn ý thì hoàn toàn chưa phải là nhạc chân chính mà chỉ có sự hòa hợp giữa tiếng lòng của con người với nhau mới có thể có được âm thanh đến từ Thiên thượng. Điều đó tạo ra sợi dây tâm linh nối liền giữa con người với con người mà sinh ra sự đồng cảm, đạt đến sự tinh lọc cả thân và tâm, hiểu ra được cảnh giới cao hơn của Đạo Trời.
Sư Khoáng đã đặt định ra rằng, âm nhạc cổ có ba loại là “Thanh Thương”, “Thanh Chinh”, “Thanh Giác”. Trong đó, “Thanh Thương” thuộc về âm thanh tượng trưng cho điềm xấu, “Thanh Chinh” là âm thanh tượng trưng cho những điều may mắn, còn “Thanh Giác” là âm thanh tượng trưng cho thời đại hưng thịnh, hoàng kim.
Lịch sử có ghi chép rất nhiều câu chuyện về tài nghệ chơi đàn của Sư Khoáng. Trong đó có ghi chép nói rằng, khi Sư Khoáng đánh đàn thì ngựa con ngừng ăn cỏ, ngẩng đầu nghiêng tai lắng nghe, chim nhỏ đang tìm thức ăn sẽ ngừng bay lượn, đánh rơi thức ăn trong miệng, trông ngóng và kêu hót theo.
Có một lần Tấn Bình Công và Vua nước Vệ cùng nghe nhạc công Sư Quyên diễn tấu một khúc nhạc. Vừa mới diễn tấu được một lát thì Sư Khoáng vội vã bước tới đè lên tay của Sư Quyên nói: “Dừng lại mau! Khúc nhạc ông đang chơi đó là lạm khúc do loạn thần cuối thời nhà Thương chế tác cho bạo chúa nhà Thương là Trụ Vương, là âm thanh mất nước. Trụ Vương vô đạo, sau bị Chu Vũ Vương tiêu diệt. Nghe nhạc thiện khiến cho con người được lợi ích, hướng về cái thiện; nghe nhạc ác sẽ khiến cho con người không còn chí hướng và sa ngã. Âm nhạc là hướng tới truyền bá đức hạnh cho con người, âm chìm đắm có hại cho đức hạnh thì nhất định không được đàn!”
Tấn Bình Công hỏi Sư Khoáng: “Đó gọi là khúc nhạc gì?”
Sư Khoáng đáp: “Đó chính là ‘Thanh Thương’, là âm điềm xấu”.
Tấn Bình Công nói: “Thế khanh hãy diễn tấu một khúc nhạc cát tường đi.”
Thế là Sư Khoáng diễn tấu khúc nhạc có sử dụng “Thanh Chinh” cho hai vị quốc quân nghe. Đây là một loại thanh âm tốt lành và mang đến những điều kỳ lạ.
Khi Sư Khoáng dùng kỹ thuật điêu luyện mà gảy khúc nhạc đầu tiên, liền trông thấy có 16 con Hạc đen tuyền từ phương Nam từ từ bay đến. Lúc Sư Khoáng gảy nhạc khúc thứ hai thì bầy Hạc đen ấy xếp thành một hàng ngay ngắn.
Khi ông chơi giai điệu thứ ba thì đàn Hạc đen vừa kêu hót vừa xếp thành hàng ngũ chỉnh tề giương cánh nhảy múa. Khi ông tiếp tục diễn tấu, trông thấy mây lành lúc ẩn lúc hiện, sương lành ào ạt kéo tới; tiếng kêu hót của bầy Hạc và tiếng đàn … tất cả hòa hợp thành một thể, còn vang vọng ngân nga rất lâu tận phía chân trời. Khiến cho con người cảm thụ được tự nhiên và thanh âm của tự nhiên, trong lòng khoáng đạt mà an bình hạnh phúc. Mọi người vô cùng ngạc nhiên, đều cao hứng hướng về Sư Khoáng chúc mừng. Từ đó về sau, người ta dùng câu “Huyền hạc giáng vân” để miêu tả về sự tuyệt vời êm ái của âm nhạc.
Sư Khoáng chỉ ra rằng tác dụng khơi dậy thiện tâm của âm nhạc có khả năng hướng dẫn và nâng cao thuần phong mỹ tục một cách vô hình, khiến cho ánh hào quang của đức hạnh chiếu rọi đến những vùng đất rộng lớn xa xôi.
Những tác phẩm của ông như “Bạch tuyết”, “Dương xuân” … là những khúc nhã nhạc để đời, biểu đạt sinh động cảnh tượng Đông qua Xuân về, mặt đất hồi sinh, vạn vật tươi tốt, sức sống tràn trề của mùa Xuân. Biểu đạt tấm lòng người quân tử giữ mình trong sạch, không vướng bụi trần, theo đuổi và hướng về tương lai tốt đẹp.
Người ta nói âm nhạc ở tầng thứ cao thì câu thông với thần linh, làm cho con người cảm thụ được sự chân thực, bao la và vĩnh hằng. Thiện hóa người khác, cảm hóa bốn phương, chính là xem trọng và yêu quý sinh mệnh, là thể hiện lòng tri ân đối với Thiên thượng đã sáng tạo ra và ban ân huệ cho tất cả sinh linh.
(Tác giả: An Hòa)