Thứ Ba, Tháng Tư 30, 2024
Trang chủLý LuậnNhạc sĩ Văn Cao - Trường ca Sông Lô và những giá...

Nhạc sĩ Văn Cao – Trường ca Sông Lô và những giá trị

19
Tác giả: NGUYỄN DƯƠNG ANH & VĂN THAO
Nếu ví chùm nhạc sông Lô như một bông hoa đẹp, rực rỡ nhiều màu sắc, ngọt ngào hương vị của hiện thực chiến tranh cách mạng, thì Trường ca Sông Lô của Văn Cao là đài hoa của những cánh hoa, là đường nét quy tụ của những môtíp hoa văn trên một bức thảm len đẹp. Trường ca Sông Lô tựa như bức tranh liên hoàn giàu chất thơ (1).
Nhạc sĩ Văn Cao

Sinh ngày 15-11-1923 tại Hải Phòng, nhạc sĩ Văn Cao rời cõi trần ngày 10-7-1995 tại Hà Nội. Là một văn nghệ sĩ đa tài – văn thơ, nhạc, họa – ở lĩnh vực nào, ông cũng để lại dấu ấn mang tính khai mở, có giá trị về nghệ thuật.

Riêng với âm nhạc, những thập niên đầu TK XX, khi văn hóa âm nhạc phương Tây ồ ạt vào nước ta bằng nhiều con đường, ngã ngách khác nhau (theo bước chân những người truyền đạo, con đường quân sự, nhà trường và phong trào hướng đạo sinh, điện ảnh, các phương tiện thông tin, kỹ thuật truyền thanh…). Trước sự áp đảo mạnh mẽ đó, “người Việt Nam đành phải chấp nhận, nhưng chấp nhận theo một cách rất Việt Nam. Sống chung, biết dung hòa và luôn biết biến cái bất lợi thành cái có lợi để phục vụ cho cuộc sống, đó là một trong những bản chất vốn có của người Việt Nam” (2). Là một người trí thức yêu nước, thích những điều mới lạ, Văn Cao đã tiếp thu tính khoa học trong cấu trúc của âm nhạc phương Tây để cho ra đời ca khúc đầu tay Buồn tàn thu, lúc ông 16 tuổi. Đây là dấu ấn quan trọng, là động lực để ông bước vào con đường sáng tạo âm nhạc. Sau Buồn tàn thu là Suối mơ, Bến xuân, Thiên thai, Trương Chi, đã đưa Văn Cao trở thành một trong nhạc sĩ tên tuổi, có tính tiên phong, khai mở cho dòng ca khúc trữ tình lãng mạn của âm nhạc Việt Nam đầu TK XX.

Trong những bước đi chập chững đầu tiên của âm nhạc mới Việt Nam, do bối cảnh xã hội, nên trong quá trình hình thành, ca khúc đã phân thành ba dòng. Bên cạnh dòng trữ tình lãng mạn là dòng ngưỡng vọng lịch sử (tiến bộ yêu nước) và ca khúc cách mạng. Với dòng ngưỡng vọng lịch sử, Văn Cao cũng ghi dấu ấn với ca khúc Gò Đống Đa, Thăng Long hành khúc. Do tác động của lịch sử và được giác ngộ cách mạng, nhân sinh quan và thế giới quan của Văn Cao đã thay đổi, từ lãng tử mơ màng, ông đã nhìn nhận và đi vào cuộc sống hiện thực kháng chiến của nhân dân. Chính vì lẽ đó, với tài năng sẵn có, Văn Cao đã trở thành nhạc sĩ có tên tuổi trong dòng ca khúc cách mạng. Do những yếu tố khách quan tác động, số lượng ca khúc của Văn Cao không nhiều như một số nhạc sĩ khác, nhưng hầu như gắn chặt với những sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc như: Tiến quân ca, Tiến về Hà Nội, Ngày mùa, Mùa xuân đầu tiên, đặc biệt, có ca khúc đã làm nên một thể loại độc đáo trong nền thanh nhạc mới Việt Nam, đó là trường ca. Từ đó ca khúc Sông Lô được gắn liền với tên của thể loại trường ca, nên có tên là Trường ca Sông Lô.

Nhạc sĩ Văn Cao

Không phải ngẫu nhiên khi tiếp cận với Trường ca Sông Lô, nhạc sĩ Phạm Duy (người bạn thân thiết của Văn Cao), đã nhận xét: “Bài Trường ca Sông Lô của Văn Cao là một tác phẩm vĩ đại… Nét nhạc của trường ca rất mạnh khỏe, rất tươi sáng. Nhịp điệu vô cùng phong phú với những chuyển đoạn rất tài tình. Bài này đánh dấu sự trưởng thành của Tân nhạc… (3).

Không riêng nhạc sĩ Phạm Duy, nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc cũng có những nhận xét tương tự như vậy (các nhà nghiên cứu trong cuốn Âm nhạc mới Việt Nam tiến trình và thành tựu là một trong những minh chứng cụ thể); và trong đời sống ca nhạc nước nhà những năm qua, không ít ca sĩ nổi tiếng như Quang Hưng, Quý Dương, Kiều Hưng, Trần Hiếu, Quang Thọ, Lê Dung, Quốc Hưng… đã chọn Trường ca Sông Lô để biểu diễn trong nhiều chương trình ca nhạc mang tính học thuật cũng như những ngày kỷ niệm trọng đại của đất nước. Vậy, điều gì đã tạo nên dấu ấn cho Trường ca Sông Lô? Nguyên nhân thì nhiều, nhưng có lẽ đó là những giá trị về lịch sử và nghệ thuật hàm chứa trong ca khúc thông qua tư duy tinh tế của nhạc sĩ và sự sắp đặt hợp lý trong cấu trúc thể loại.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, niềm vui chưa được tày gang của một dân tộc vừa thoát khỏi ách nô lệ ngoại bang, thì ngay sau đó, đất nước ta lại bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp. Khẩu hiệu xuyên suốt của giai đoạn này là: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, văn hóa, nghệ thuật không thể đứng ngoài cuộc, mà cùng đồng hành với dân tộc với khẩu hiệu: “Văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa”. Từ cơ sở nền tảng là đường lối văn hóa của bản Đề cương về văn hóa Việt Nam (năm 1943), và lời phát biểu khai mạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (năm 1946). Xác định văn hóa cũng là một mặt trận, người làm công tác văn hóa, nghệ thuật đồng thời phải là chiến sĩ cộng sản đi tiên phong trên mặt trận ấy, để sáng tạo ra những tác phẩm phục vụ nhân dân, phục vụ kháng chiến… Bối cảnh lịch sử ấy, với đường lối văn hóa ấy – nếu như những năm tháng trước đây, Văn Cao đã giác ngộ và ý thức được trách nhiệm của người chiến sĩ cách mạng, thì giai đoạn này, ông thực sự đã có giá đỡ về mặt tư tưởng, và đó một trong những cơ sở để nhạc sĩ Văn Cao phát huy tài năng trong sáng tạo nghệ thuật.

Với tư cách là một chiến sĩ văn hóa cách mạng, tháng 10-1947, Văn Cao được cử lên Việt Bắc tham gia kháng chiến. Ông qua Phú Thọ, men theo dọc bờ sông Lô để tìm đường lên Chiến khu Việt Bắc. Dặm dài gian nan ấy, Văn Cao được nghe về: chiến thắng oai hùng của bộ đội pháo binh trong trận đánh Đoan Hùng trên sông Lô, tận mắt chứng kiến cảnh xóm làng trơ trụi, xác giặc trôi đầy sông và không khí hồi hởi của nhân dân ở đôi bờ dòng sông Lô, đang bắt tay vào việc xây dựng lại xóm làng; thấy được cảnh oai hùng của đoàn quân chinh chiến thắng trận trên đường về chiến khu, bên cạnh là cảng hùng vĩ của dòng sông Lô đang chảy về xuôi (4). Tất cả những khung cảnh ấy sẽ là đối tượng khách quan, thông qua cảm xúc và tư duy sáng tạo, được nhạc sĩ Văn Cao đưa vào ca khúc. Thông qua Trường ca sông Lô, không phải tất cả, nhưng người nghe có thể hình dung được một phần hiện thực của Chiến dịch Việt Bắc Thu Đông năm 1947 trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta. Nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc thường cho rằng: ca khúc cách mạng là một biên niên sử bằng âm thanh về hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta ở TK XX. Nhận xét như vậy có phần đúng, bởi mỗi ca khúc là sự phản ánh một trận đánh, một sự kiện ghi dấu ấn trong lịch sử. Trường ca sông Lô của Văn Cao không phải trường hợp ngoại lệ, đó là giá trị về lịch sử mà ca khúc mang lại.

Sông Lô, đoạn chảy qua Phú Thọ – Ảnh: wiki

Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, do đặc điểm thuộc về hình thức, ngôn ngữ của thể loại thanh nhạc không giống với ngôn ngữ của thể loại chuyện, ký hay loại hình sân khấu, điện ảnh. Câu chuyện được kể, không thể tỷ mỷ, mà phải có tính khái quát cao, đây là điều vô cùng khó khăn đối với các nhạc sĩ nói chung. Với nhạc sĩ Văn Cao lại khác, ông luôn tìm cái mới trong cái đã qua và cái đang hiện hữu. Ông muốn kể hiện thực của cuộc kháng chiến bằng ngôn ngữ âm nhạc, và Trường ca sông Lô là biểu hiện rõ nhất cho sự tìm tòi, sáng tạo, để tạo nên một thể loại thanh nhạc mới của Việt Nam.

Nhìn lại lịch sử của nền âm nhạc mới Việt Nam từ 1945-1954, tác giả Nguyễn Đăng Nghị cho rằng: “sau những bước đi chập chững đầu tiên, thì đây là giai đoạn đang tự hoàn thiện, nghĩa là các nhạc sĩ Việt Nam đang dần thoát khỏi sự trói buộc của ngôn ngữ, cấu trúc âm nhạc phương Tây để đi tìm đến một cách thức, phương thức biểu hiện mới mang bản sắc Việt Nam” (5). Với Trường ca sông Lô, nếu nhìn vào quy mô hình thức bề ngoài, thì giống và được hiểu như một bài hát dài, nhưng thực sự không phải như vậy, mà nó có những kết cấu, khả năng phản ánh cũng như tính chất âm nhạc… hoàn toàn khác với một ca khúc dài bình thường. Mặt khác, trong Trường ca Sông Lô cũng là câu chuyện được kể lại, âm nhạc cũng có đoạn nhắc lại, nhưng không giống với ballat hay rondo, hoặc bất cứ thể loại nào của âm nhạc phương Tây. Các nhà nghiên cứu âm nhạc đồng nhất cho rằng: trường ca nói chung và Trường ca Sông Lô nói riêng, đặc điểm nổi bật đó là tính liên khúc, liên đoạn: một đề tài, một nội dung được thể hiện, diễn giải qua nhiều chặng, nhiều khúc, nhiều đoạn khác nhau. Xét về mặt nội dung đề tài sẽ thấy, những khía cạnh khác nhau của trường ca được thể hiện qua mỗi đoạn, hoặc sự tiến triển của nội dung đề tài được bộc lộ qua từng chặng. Về bố cục và ngôn ngữ âm nhạc thì: “Mỗi khúc, mỗi đoạn có một chủ đề, điệu tính riêng, đôi khi kèm theo cả về nhịp điệu, nhịp phách. Tính độc lập tương đối của mỗi đoạn, mỗi khúc biểu hiện đậm nét hơn do nội dung đề tài phản ánh phức tạp hơn” (6), cụ thể là:

Sau nét nhạc mở đầu có tính khơi gợi, tiếp đến là đến là đoạn 1 được viết ở giọng rê trưởng (D – dur), tốc độ chậm, hình ảnh dòng sông Lô – dòng sông kháng chiến – vẫn chảy hiền hòa qua bãi dài ngô lau trong khung cảnh của núi rừng âm u. Tính chất âm nhạc dàn trải, mênh mang, kết hợp với chất thơ của lời ca, đã dệt nên một bức tranh bằng âm thanh nhiều màu sắc, hình khối khác nhau về một vùng kháng chiến. Đoạn 2, âm nhạc được viết ở giọng son trưởng (G – dur), với tộc độ nhanh vừa, diễn tả niềm vui của đoàn quân pháo binh chiến thắng trở về trong niềm hân hoan của người dân và trong tiếng sóng dâng trào của dòng sông Lô. Sang đoạn 3 viết ở giọng si trưởng (H – dur), tính chất âm nhạc hào hùng theo kiểu hành khúc, diễn tả sức mạnh, ý chí quyết tâm đánh giặc của người chiến sĩ. Đoạn 4, viết ở giọng si thứ (h – moll), tốc độ chậm, tính chất âm nhạc trầm lắng; lời ca miêu tả một đêm lạnh giá, bên ngôi nhà xác xơ, có những người ngồi cạnh bếp lửa chờ đợi ánh chiêu dương. Đoạn 5 là cao trào của tác phẩm, âm nhạc viết ở giọng rê trưởng (D – dur), tính chất âm nhạc trong sáng, kết hợp với lời ca diễn tả cuộc sống đang được hồi sinh sau chiến tranh; niềm vui của người dân trào dâng hình như chỉ có tiếng hát và tinh thần lạc quan trong lao động. Sang đoạn kết, chất liệu âm nhạc được lấy từ câu dạo đầu; tính chất âm nhạc trong sáng hơn; giai điệu lời ca như khẳng định một niềm tin lạc quan vào chiến thắng ngày mai, và mùa xuân tới, dòng sông Lô vẫn trôi “nước in ven bờ xanh in bóng tre”.

Một sự kiện lịch sử được gói gọn trong một tác phẩm âm nhạc. Không chỉ đơn thuần có vậy, mà thông qua Trường ca Sông Lô có thể thấy bước chuyển biến về tâm thức, nhận thức của nhạc sĩ Văn Cao trên các phương diện, đó là: sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tinh hoa âm nhạc phương Tây với âm nhạc Việt Nam để tạo ra một thể loại mới; là sự kết hợp của khéo léo giữa văn – thơ – họa trong một tác phẩm âm nhạc. Điều này không phải nhạc sĩ nào cũng làm được, chỉ có Văn Cao với tài năng thiên phú và được rèn luyện trong cuộc sống hiện thực kháng chiến, cộng với cách tư duy mang tính khai mở, mới đem lại thành công như vậy. Ngoài giá trị về phương diện lịch sử, thì đối với nghệ thuật âm nhạc, Trường ca sông Lô đã góp phần không nhỏ vào “việc định hình rõ một bút pháp về loại thể trường ca Việt Nam” (7). Cho đến thời điểm hiện tại, Trường ca sông Lô của Văn Cao vẫn được giới chuyên môn đánh giá cao và được nhìn nhận như một trong những tượng đài của nền âm nhạc mới Việt Nam.

Cũng viết về tác phẩm “Trường ca Sông Lô”, nhạc sĩ Văn Thao, con trai nhạc sĩ Văn Cao đã có bài viết:

Mùa thu năm 1947, từ Lào Cai, Văn Cao trở về Vĩnh Yên. Ông cùng gia đình mở một quán cà phê tại chợ Me Lập Thạch tiếp tục làm báo Độc Lập và phụ trách một cơ sở in báo đóng tại Thản Sơn.


Nhạc sĩ Văn Cao 

Ông cảm thấy thanh thản khi được trở về với những công việc thân quen và yêu thích: Làm thơ – vẽ – sáng tác âm nhạc v.v. Quán cà phê của ông tại “Thị trấn Me Đồi” luôn đông vui, tấp nập. Nơi dừng chân của dân tản cư, nơi tụ tập, đàm đạo văn chương của giới văn nghệ sĩ kháng chiến… “Thị trấn Me Đồi” trong những năm đó là cửa ngõ giữa vùng địch tạm chiếm và căn cứ địa của cuộc kháng chiến.

Tháng 10/1947, Tây nhảy dù Bắc Cạn. Bọn giặc tập trung 12.000 quân bao vây và tấn công Việt Bắc, hòng tiêu diệt các cơ quan đầu não kháng chiến của ta. Chiến thuyền giặc theo đường sông Lô đánh lên Tuyên Quang. Giữa lúc “nước sôi lửa bỏng” đó, Văn Cao được lệnh của Tố Hữu điều lên Việt Bắc (ông Tố Hữu lúc đó mới được điều từ khu 4 lên phụ trách văn nghệ). Việc đầu tiên, Tố Hữu chủ chương là tập hợp cho được văn nghệ sĩ trong và ngoài Hội Văn hóa cứu quốc đi theo kháng chiến chuẩn bị thành lập Hội Văn nghệ Việt Nam và ra báo Văn Nghệ. Người liên lạc theo lệnh của Tố Hữu, dẫn Văn Cao cùng vợ con ra bến Then để vượt sông Lô sang Phú Thọ. Trời chiều. Bầu trời ảm đạm – mùa đông năm ấy đến sớm, gió từ mặt sông thổi lên từng cơn làm mọi người ớn lạnh. Có hai tốp người đợi qua sông trên bến. Một tốp buôn vải và một tốp buôn muối, mỗi tốp khoảng hơn chục người. Người liên lạc đưa gia đình Văn Cao lên chuyến đò đầu tiên cùng với tốp người buôn vải từ dưới xuôi lên Việt Bắc. Con đò hối hả qua sông mọi người ngồi co ro trong thuyền một cách trật tự và yên lặng, thỉnh thoảng có tiếng trao đổi xì xào và tiếng sóng vỗ ì oạp vào mạn thuyền.

Thuyền cập bến, mọi người vội vã khẩn trương rời xa bến đò càng nhanh càng tốt vì nơi ấy thường bị giặc phục kích. Đưa vợ con lên bờ, Văn Cao tìm không thấy người liên lạc đâu. Không có nhẽ người liên lạc đi chuyến sau với tốp buôn muối? Một thoáng nghi ngại trong đầu, Văn Cao quyết định đưa vợ con nhập theo toán buôn vải cho có bạn đường. Qua khỏi bến đò chừng một cây số, Văn Cao cho vợ con nghỉ lại ven một quả đồi. Người vợ trẻ lúc đó của ông đang mang thai. Chợt phía trước những tràng súng rộ lên dữ dội. Văn Cao giật mình, rồi không gian cũng yên tĩnh trở lại. Văn Cao hiểu rằng tốp buôn vải đã lọt vào ổ phục kích của giặc. Một lúc sau, tốp người buôn muối sang đò chuyến sau cũng đã đi đến. Không thấy người liên lạc. Linh tính cho Văn Cao biết có chuyện gì đó không bình thường. Bằng những kinh nghiệm hoạt động bí mật của mình, Văn Cao quyết định đưa vợ con đi luồn lách men dòng sông Lô ngược lên.

Ngày 24/10/1947, bộ đội pháo binh của ta đã chiến thắng giòn giã trên sông Lô. Bắn cháy hai tàu chiến của giặc, bắn bị thương hai chiếc khác, tiêu diệt hàng trăm tên địch. Tuyến vận chuyển đường sông Lô bị cắt đứt hoàn toàn, máy bay địch phải nhảy dù tiếp tế cho Tuyên Quang. Cùng chiến thắng Bình Ca – chiến thắng sông Lô lẫy lừng đã bẻ gẫy hoàn toàn cuộc bao vây và tấn công lên Việt Bắc của quân Pháp nhằm tiêu diệt các cơ quan đầu não kháng chiến của ta. Báo chí Pháp gọi đây là “thảm họa Đoan Hùng”.

Chuyến đi của Văn Cao lên Việt Bắc xảy ra đúng lúc giặc Pháp thua trận đang trên đường rút quân trở về. Đi đến đâu bọn địch cũng đốt phá, cướp bóc đến đó. Văn Cao đã nhìn thấy những xóm làng ven sông bị địch đốt trụi, những nền “nhà khô trơ than xám”. Những niềm vui trên khuôn mặt của dân chúng sau chiến thắng sông Lô. Họ trở về với xóm làng, dựng lại nhà cửa trong những đêm gió rét và “Từng sân vui bồng người bên lửa hồng” Văn Cao cũng chứng kiến những “Thây giặc trôi trở về ngập bờ” trên những khúc sông mà ông đã đi qua. Nỗi xúc động ngập tràn trong lòng ông. Âm hưởng của chiến thắng bừng sáng trong những gương mặt của các cụ già, của những bé thơ, của những “Đoàn quân thời chinh chiến” mà ông gặp gỡ trên đường lên chiến khu. Dòng sông Lô bình dị từ ngày xưa không còn nữa. Trước mặt ông dòng sông Lô trở nên hùng vĩ, bao la, tràn trề sức sống…

Vài ngày sau Văn Cao đã lên đến Vũ Ẻn. Ông sắp xếp cho vợ ở cùng với gia đình nhà ngoại (đã tản cư lên đây từ đầu năm 1947) rồi mới vào Gia Điền nơi cơ quan văn nghệ đang đóng ở đó. Nguyên Hồng – Nguyễn Đình Thi – Nguyễn Huy Tưởng… vui mừng được gặp lại Văn Cao bởi họ đã nhận được tin “Văn Cao cùng vợ và con đã chết vì bị Tây phục kích trên đường”. Văn Cao chỉ cười “Số mình cao lắm chết không dễ đâu…”. Nguyễn Huy Tưởng rỉ tai Văn Cao: “Tố Hữu được giao phục trách văn nghệ, bọn mình phải chuẩn bị tập hợp bài vở để ra báo Văn Nghệ, có cậu lên giúp một tay thì hay quá. Hôm Tố Hữu bảo gọi cậu lên, anh em không nhất trí. Giặc đang càn lớn, lên lúc này không an toàn… Vậy mà ông ấy nghe đâu…”.

Mấy ngày sau Văn Cao tìm gặp Doãn Tuế, người trợ lý của trung đoàn Pháo binh, trực tiếp theo dõi diễn biến trận đánh tàu chiến của giặc trên toàn tuyến sông Lô và Siêu Hải, người Trung đội trưởng trực tiếp chỉ huy một khẩu đội pháo bắn cháy một tàu chiến của giặc Pháp; hai người dẫn Văn Cao đi dọc theo bờ sông Lô nơi trận đánh xảy ra. Những vạt lau cháy loang lổ hai bờ sông vẫn còn ám khói súng. Qua lời kể của Siêu Hải, toàn cảnh trận đánh hiện ra trong mắt Văn Cao:

… Sông gầm âm vang súng trái phá
Bao rừng thu như bát ngát cười
Dân hoan hô chiến sĩ pháo binh Việt Nam ghi công
Tiếng trái phá quân thù gục chìm
Dòng Lô

Chiến thắng sông Lô đã làm tên tuổi của dòng sông sống mãi với lịch sử của dân tộc. Để cho “Bao dân trong khu mười mơ thành người sông Lô”. Và mãi mãi “Đoàn quân thời chinh chiến ca rằng/ Đây Vonga, đây Dương Tử, đây sông Lô…”. Trường ca sông Lô đã được ra đời trong những ngày Văn Cao “Về trong đêm gió rét” đó và được in trên số báo Văn Nghệ đầu tiên ra tháng 3/ 1948.

Thời gian cứ trôi đi, Văn Cao (người sáng tác ra bản trường ca sông Lô bất tử), Doãn Tuế (người sĩ quan pháo binh góp phần làm nên chiến thắng sông Lô) đều đã trở về cõi vĩnh hằng. Và kỳ lạ thay Văn Cao và Doãn Tuế lại cùng an nghỉ cạnh nhau tại nghĩa trang Mai Dịch (Hà Nội).

Chỉ còn lại dòng sông Lô thanh bình bất tử vẫn mãi chảy giữa “Sông ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau, núi rừng âm u…”.

________________

1, 6. Tú Ngọc, Nguyễn Thị Nhung, Vũ Tự Lân, Nguyễn Ngọc Oánh, Thái Phiên, Âm nhạc mới Việt Nam tiến trình và thành tựuViện Âm nhạc xuất bản, 2000, tr.249, 243.

2, 5, 7. Nguyễn Đăng Nghị, Bay lên từ truyền thống, Nxb Văn hóa Thông tin – Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, 2011, tr.22, 38, 109.

3, 4. Trường ca Sông Lôvi.wikipedia.org.

NGUYỄN DƯƠNG ANH

VĂN THAO

Nguồn: Tạp chí VHNT số 551, tháng 11-2023

Nguồn: https://hoinhacsi.vn/

BÀI LIÊN QUAN

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

PHỔ BIẾN

BÌNH LUẬN