Thứ Ba, Tháng Tư 30, 2024
Trang chủLý LuậnNghệ thuật đánh thức các không gian bị quên lãng

Nghệ thuật đánh thức các không gian bị quên lãng

19

Tác giả: TS TRẦN YÊN THẾ

Người dân tập thể Văn Chương xem vở tuồng Sơn Hậu Beyond the Mountain –  Ảnh: Hoàng Anh

Sau hơn 30 năm Đổi mới, Hà Nội đã thay đổi rất nhiều, bên cạnh những thành tựu đạt được về tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân, có một bức tranh đáng buồn về không gian công cộng đang bị xuống cấp. Công viên bị các nhà hàng, khách sạn bủa vây. Vỉa hè bị lấn chiếm. Các khu tập thể cũ từng là niềm kiêu hãnh một thời nay đã xuống cấp, sân chơi, vườn hoa bị lấn chiếm. Ngay cả đến lối lên xuống ở các cầu thang ở đây cũng trở thành quán nước, quán bia, quầy tạp hóa… Trong tác phẩm The structural transformation of the public sphere (Sự chuyển đổi cấu trúc của khu vực công cộng) xuất bản năm 1962, của triết gia Đức Jrgen Habermas đã nhấn mạnh đến không gian công cộng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống, là điều kiện để thiết lập nền dân chủ. Dân chủ làng xã xưa kia có sân đình. Chiếu chèo sân đình, tuồng đồ chính là những hình thức diễn xướng dân gian góp phần giải tỏa những bức xúc xã hội, có tác dụng giáo dưỡng tâm hồn và làm nhẹ đi những cực nhọc kiếp người. Cho đến nay, đó vẫn là không gian công cộng chuẩn mực về chất lượng của nghệ thuật, đóng vai trò kiến tạo các quan hệ xã hội.

1. Những không gian bị quên lãng ở ven sông Hồng

Không gian bị bỏ quên trong bài viết này tập trung vào những không gian đô thị, vì những lý do nào đó mà bị bỏ quên, bị biến dạng, bị chiếm dụng thành những không gian ít người qua lại thành sở hữu tư nhân. Không gian bị bỏ quên ở các đô thị tiềm ẩn những bất an cho cộng đồng, trở thành nơi tập kết rác, nơi tụ tập cờ bạc, ma túy.

Bờ vở Phúc Tân, phần bờ mép của sông Hồng đoạn chạy qua quận Hoàn Kiếm tiếp giáp các phường Phúc Tân. Từ lâu nổi tiếng là khu vực tối tăm với nghĩa đen và nghĩa bóng. Đây là khu vực bị ngủ quên trong các bản quy hoạch phát triển của thành phố Hà Nội. Thực tế dân cư ở khu vực này khá phức tạp. Phần đông là dân tứ xứ, lao động phổ thông, con em dân vạn đò, thậm chí là những thành phần thua cờ thua bạc bán nhà bán cửa cắm lều dựng trại ở đây. Thành ngữ “ra đê mà ở” cũng từ đây mà ra. Bờ vở đảm bảo sự an toàn cho hành lang thoát lũ. Nhưng tại đây thường diễn ra các hoạt động lấn chiếm đất đai trái phép, cùng với đó là nạn đổ phế liệu phế thải. Trong suốt một thời gian dài, địa bàn này thường xuyên diễn ra hoạt động buôn bán, tiêm chích ma túy, cờ bạc. Người dân sở tại rất ngại qua đây khi đêm xuống. Khu bờ Vạn Phúc Tân vì thế như một mảnh đất hoang bị bỏ quên. Về đêm nếu nhìn từ trên cao xuống, chỉ nhìn thấy một vùng tối tăm le lói vài túp lều xen kẽ những bờ suối, bờ chuối bờ lau cao ngút. Về đêm, đứng từ đây có thể nhìn thấy rõ dòng xe ô tô hối hả qua lại trên hai cây cầu Long Biên và Chương Dương rực sáng.

Thường thì có sáng xanh mới sạch đẹp. Đẹp luôn ở giai đoạn sau cùng, cũng như cần có một mảng tường trắng mịn phẳng phiu rồi mới mời họa sĩ đến đó vẽ. Ai có thể tin được chính Dự án Nghệ thuật công cộng bờ vở Phúc Tân lại đi từ đẹp tới sạch, tới sáng tươi. Ai có thể tin được chính Dự án Nghệ thuật công cộng bờ vở Phúc Tân lại được khởi đầu từ trong tối tăm hôi hám. Từ ý tưởng của KTS Phạm Tuấn Long, lúc đó là Phó Chủ tịch UBND quận Hoàn Kiếm và giám tuyển Nguyễn Thế Sơn, nghệ thuật đã đánh thức mảnh đất bờ vở bị bỏ quên.

Dự án được tiến hành rất khác với cách thức mà những dự án nghệ thuật công cộng trước đó tiến hành. Nó rất khác với cách thức mà dự án Con đường gốm sứ cách đấy không xa. Dự án Nghệ thuật công cộng Phúc Tân kể những câu chuyện về đời sống, về ước mơ và tham gia thay đổi chất lượng cuộc sống của cộng đồng người dân nơi đây. Giám tuyển Nguyễn Thế Sơn và các nghệ sĩ ngoài sự ủng hộ của lãnh đạo quận Hoàn Kiếm, phường Phúc Tân, họ còn có sự đồng tình của người dân bờ vở. Không nhận được những khoản tài trợ từ doanh nghiệp, mọi người bắt đầu từ những mảng tường gồ ghề nham nhở bong tróc, thậm chí có những đoạn ẩm mốc địa y dương sỉ mọc đầy.

Những tác phẩm của nghệ sĩ Cấn Văn Ân, Lê Đăng Ninh là những tác phẩm đặc biệt gắn bó với ký ức người dân đất bãi. Một bộ phận không nhỏ dân cư Phúc Tân từng có cuộc sống nay đây mai đó, họ lênh đênh trên những con thuyền buôn bán, ngược xuôi đánh bắt cá của dân vạn đò, hình ảnh nhà nổi của những cư dân du cư trong thành phố – họ sống trên vùng bãi bồi giữa lòng sông, khi mùa nước về họ lại trôi đi, tới mùa nước cạn, họ trở về. Một cuộc sống không điện, không nước sạch, không hộ khẩu, nằm khuất giữa bóng tối của lòng sông.

Các tác phẩm của dự án nghệ thuật Phúc Tân là dự án đầu tiên phải có quy mô lớn nhất biến rác thành nghệ thuật theo đúng nghĩa đen của nó. Các tác phẩm của Vũ Xuân Đông, Phạm Khắc Quang, Nguyễn Hoài Giang đã sử dụng vật liệu phế thải làm tác phẩm.

Từ góc độ sinh thái bảo vệ môi trường, chất liệu để làm tác phẩm con đường gốm sứ là chất liệu đòi hỏi tiêu hao năng lượng lớn sử dụng nhiều hóa chất độc hại, kim loại nặng, đặc biệt có chì và thủy ngân là những chất có hại với môi trường. Nếu như con đường gốm sứ kể rất nhiều câu chuyện, phải mang nhiều hình ảnh của nhiều nền văn hóa trên thế giới, con đường gốm sứ là nghệ thuật “kỷ lục”, nhưng không phải là dự án nghệ thuật thành công trên phương diện nghệ thuật cũng như xây dựng cộng đồng. Con đường gốm sứ cũng có sự tham gia của các nghệ sĩ quốc tế, nhưng các nghệ sĩ Tây chỉ để lại dấu ấn văn hóa quê hương của họ. Họ giống như những nghệ sĩ du lịch tình cờ ghé qua Hà Nội thấy vui vui thì tham gia dự án. Ngược lại, nghệ sĩ quốc tế tham gia Dự án Nghệ thuật công cộng Phúc Tân đem đến những câu chuyện rất địa phương.

Những tác phẩm này dù rất mới lạ nhưng không kiểu cách, màu mè. Nó chạm vào ký ức, làm xúc động người dân nơi đây vì kể lại những câu chuyện về chính cuộc đời của họ. Nghệ thuật chen vào cuộc sống một cách tự nhiên nhất, như cách nghệ sĩ Úc George Burchett làm một con voi sắt bên bức tường rêu ẩm vốn có, mọc đầy dương xỉ. Đây cũng là chỗ trẻ con hay ra vui chơi. Những câu chuyện về dòng sông, thuyền bè, người gồng gồng gánh gánh trong các tác phẩm của Nguyễn Thế Sơn, Vũ Xuân Đông là câu chuyện quá khứ luôn được các bạn trẻ yêu thích vì là những thử nghiệm mới của chất liệu đèn led inox.

Tác phẩm Rồng của dòng sông của nghệ sĩ Diego như là giấc mơ kỳ ảo hòa trộn quá khứ và tương lai. Anh đã nhận về cho mình phần khó khăn nhất: Đây là đoạn đường tối tăm, bẩn thỉu nhất, luôn sặc mùi phóng uế. Anh và các nghệ sĩ khiếm thính đã biến đoạn đường này thành khúc nhạc dạo đầu rực rỡ nhất của con đường nghệ thuật Phúc Tân. Vào ngày 20-3-2021, tại đây đã có buổi trình diễn thời trang áo dài đặc biệt của thương hiệu Chula do chính anh thiết kế. Điều đặc biệt là cùng tham gia với những người mẫu chuyên nghiệp còn có người dân địa phương.

 Những ai đến với bờ vở Phúc Tân giờ đây không khỏi ngạc nhiên, từ sáng đến khuya luôn có người qua lại vui chơi, tập luyện thể dục. Bản thân người dân Phúc Tân cũng thực sự tự hào vì dự án nghệ thuật này đã thay đổi những định kiến của người dân trong phố với người dân nơi đất bãi, bờ vở. Đây cũng là dự án nhận được nhiều sự quan tâm của các phương tiện truyền thông báo mạng, báo giấy, báo hình. Dự án này cũng nhận được nhiều bình luận tích cực từ giới học thuật trong và ngoài nước.

Buổi Lễ trao giải thưởng Bùi Xuân Phái – Vì tình yêu Hà Nội lần thứ 13 (2020) tại Trung tâm Thông tấn Quốc gia (Số 5 – Lý Thường Kiệt, Hà Nội), Báo Thể thao và Văn hóa (TTXVN) đông người tham dự hơn thường lệ. Dường như chưa bao giờ trong lịch sử của giải thưởng này, có đông các nghệ sĩ đương đại đến như vậy, trong số họ có cả nghệ sĩ Úc và Tây Ban Nha. Đó là các nghệ sĩ tham gia Dự án Nghệ thuật công cộng Phúc Tân. Một vinh dự vô cùng to lớn khi dự án này được nhận giải Vì tình yêu Hà Nội hạng mục việc làm.

2. Những không gian bị quên lãng ở khu tập thể

Đôi nét về lịch sử phát triển các khu tập thể ở Hà Nội. Hiệp định Genève (1954) chia cắt đất nước thành hai miền: Bắc, Nam. Dạng thức nhà ở cao tầng có nhiều căn hộ xuất hiện ở cả hai miền. Loại hình nhà ở này miền Bắc gọi là nhà tập thể, miền Nam gọi là cư xá. Không chỉ khác tên gọi, sự khác biệt về chế độ ở hai miền dẫn đến sự khác biệt về hình thái kiến trúc, cho đến tên gọi và cung cách quản lý.

Xin bắt đầu với tên gọi khu tập thể. Chỉ ở miền Bắc mới có tên gọi này. Xét về quy mô xây dựng, miền Bắc đã vượt xa miền Nam về diện tích xây dựng do chế độ cũ ở miền Nam chấm dứt vào năm 1975. Các khu tập thể ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh xây dựng từ năm 1974 cho tới khoảng 1985. Ở Hà Nội, khu Văn Chương, Nguyễn Công Trứ, Giảng Võ là những thử nghiệm bước đầu, ở quy mô nhỏ, tiếp đến là các khu Kim Liên, Trung Tự, Thành Công, Thanh Xuân. Đặc biệt, khu Thanh Xuân có quy mô lớn, chất lượng quy hoạch, kiểu dáng kiến trúc hiện đại nhất.

Quá trình lấn chiếm các diện tích công

Những thiết kế ban đầu của các chuyên gia Triều Tiên tạo ra những khoảng trống đủ lớn để đảm bảo khi có động đất tòa nhà này không đổ vào nhà vào nhà kia. Khoảng rộng giữa hai nhà được hình thành từ tiêu chí thuần túy kỹ thuật. Sân trống giữa các khu tập thể ở Kim Liên nhanh chóng biến thành các ruộng rau. Trong những năm chiến tranh và bao cấp thời hậu chiến, những mảnh vườn tự phát này đã góp phần quan trọng vào bữa ăn của người dân nơi đây. Sau thời kỳ Đổi mới một vài hộ gia đình thay vì trồng dăm ba luống rau, nuôi dăm ba con gà, họ đã dựng một căn nhà đơn sơ để bán giải khát, sửa xe hay một cửa hàng tạp hóa. Một diễn biến khác của những ngôi nhà mọc trái phép ở các khu tập thể thập niên 80-90 của thế kỷ trước vốn là lều lán, kho bãi của công trường xây dựng. Những người công nhân xây xong căn nhà tập thể thì ở lại luôn trong các lều lán này. Mạnh ai người đấy lấn, thời thế thay đổi các nhà tầng 1 đều đua thêm ra bên ngoài từ 10-20m. Không gian đất trồng quanh khu tập thể là phần diện tích đất công bị lấn chiếm vô tư, là kết quả sự buông lỏng quản lý trong một thời gian khá dài. Đứng trước vấn đề cấp bách ảnh hưởng đến cảnh quan đô thị, sự an toàn phòng cháy chữa cháy, đặc biệt là chất lượng sống của người dân, các cấp chính quyền đã quyết liệt vào cuộc giành lại sân chơi cộng đồng. Mới đầu là láng xi măng, khi nhiều tiền hơn thì lát gạch lắp đặt cầu tụt phải đu quay khỏe tác dụng cụ luyện tập thể thao đơn giản. Và từ đó, tiếng cười đã tràn ngập khoảng sân chơi ở các khu tập thể. Sáng sáng các cụ già xuống đây múa quạt, tập Thái Cực Quyền, chiều chiều trẻ đạp xe ba bánh, đánh cầu lông, khoảng sân nhỏ đầy ắp tiếng cười. Một không gian đô thị vị nhân sinh, tuy nghèo nhưng rất dư giả chỗ chơi cho trẻ con và người già. Các hoạt động thể thao thể dục mang lại nhiều ích lợi cho sức khỏe tinh thần người dân. Nhưng dù là thể thao gì đi chăng nữa nó cũng không thể tạo ra những xúc cảm thẩm mỹ, sự thanh lọc tâm hồn, những biểu đạt văn hóa vốn là những điều chỉ có thể tìm thấy trong nghệ thuật.

Đánh thức sân khấu cộng đồng bị bỏ quên

So với cộng đồng dân cư ở các khu phố cổ, làng trại Hà Nội, dân cư các khu tập thể nhìn chung dân trí tương đối cao, phần đông là cán bộ công nhân viên, viên chức nhà nước. Khu vực sân chơi cộng đồng ở các khu tập thể có tiềm năng cho các hình thức nghệ thuật biểu diễn như trình diễn thời trang, hát đồng ca. Xét về diện tích bình quân người trên mét vuông sân chơi công cộng, dù chưa có số liệu thống kê chính xác, nhưng chắc chắn so với cư dân phố cổ, làng trại ở Hà Nội những không gian sân vườn của các khu tập thể sẽ gấp nhiều lần.

MV Thật bất ngờ ca sĩ của Trúc Nhân được quay tại 43 Vọng Hà, phường Chương Dương, quận Hoàn Kiếm. Đây là MV ca nhạc đầu tiên của dòng nhạc nhẹ chọn bối cảnh là khu tập thể, từ trước đến nay bối cảnh các MV ca nhạc quay ở Hà Nội thường lựa chọn cảnh hồ Gươm, Hồ Tây, Thành Cửa Bắc, 36 phố phường, quảng trường Ba Đình, đường Phan Đình Phùng với biệt thự Pháp và hàng sấu cổ. Tạo lối đi riêng, khác với phần đông các ca sĩ thời nay, Trúc Nhân cảm mến trước vẻ bình dị, đáng yêu, đặc biệt thân thiện của các khu tập thể. Ngay sau khi MV Thật bất ngờ của ca sĩ Trúc Nhân ra mắt, cộng đồng mạng đã có nhiều lợi khen về chất lượng nghệ thuật, sự tham gia của cộng đồng người dân và cách xử lý bối cảnh không gian nhà tập thể. Quận Hoàn Kiếm là quận phong phú nhất các loại hình di sản kiến trúc ở Hà Nội. Tuy không có các khu tập thể với nhiều tòa nhà, có quy hoạch như khu tập thể Kim Liên Trung Tự, Thành Công, Giảng Võ… cái hay của nhà tập thể 43 Vọng Hà là nằm ngay ở sát khu Phố Cổ của quận Hoàn Kiếm. Trong MV, hình ảnh những người hàng xóm, góc bản tin, cầu thang hành lang, quần đùi áo may ô phơi dọc ngang trên lối vào dù chỉ hiện vụt hiện qua vài giây hình nhưng sẽ làm kỷ niệm khó quên. Sự tham gia diễn xuất của cư dân khu tập thể Thủy lợi này cũng góp phần không nhỏ đem đến hiệu ứng thân thương bình dị cho MV ca nhạc Thật bất ngờ của Trúc Nhân.

Sân khấu thể nghiệm cũng đã có tác phẩm rất thành công khi chọn sân chơi khu tập thể làm sàn diễn. Đó là vở Sơn Hậu – Beyond the Mountain của Nguyễn Quốc Hoàng Anh và Hà Nguyên Long. So với MV ca nhạc Thật bất ngờ của Trúc Nhân, vở Sơn Hậu – Beyond the Mountain là một vở diễn đồ sộ, có tính triết luận cao. Tuồng có nguồn gốc nghệ thuật cung đình. Việc đưa một loại hình nghệ thuật sân khấu đậm chất bác học thời phong kiến đến với công chúng khu tập thể là điều chưa từng có trong lịch sử sân khấu tuồng. Trong những năm gần đây, tuồng đã đến gần hơn với đời sống, nhưng chủ yếu là diễn ở trường học.

Đôi nét về khu tập thể Văn Chương và sân chơi trước nhà B1. Khác với nhà tập thể ở 43 Vọng Hà, khu tập thể Văn Chương khá tồi tàn. Dường như từ rất lâu rồi (chắc có tới vài chục năm) căn nhà B1 không được sửa sang, quét vôi mới. Sự nhếch nhác lộn xộn, biến dạng của ngôi nhà do hoạt động cơi nới. Phía sân B1 nhìn lên lại là phần công trình phụ, làm mặt sau của ngôi nhà. Những mảng tường rêu cùng với hệ thống ống nước nhằng nhịt, làm nên sự ma quái nhất định. Sự sáng tạo của vở diễn Sơn Hậu – Beyond the Mountain mang tính đột phá chính là khả năng xuyên không của vở diễn.

Tích truyện kể rằng kể lại những xung đột triều chính. Vở diễn tương tác với không gian thực, kết hợp nghệ thuật truyền thống với âm thanh điện tử và krumping (khiêu vũ đường phố) diễn tả lại cảnh hồn Linh Tá hiện lên chém đầu Tạ Ôn Đình. Tuy mượn chuyện nước người nhưng để nói nước mình là thủ pháp quen thuộc của văn học trung đại, các tác phẩm tuồng cung đình thường được biểu diễn tại những nơi trang trọng để giáo dục lòng trung nghĩa.

Sự kết hợp nghệ thuật tuồng với nghệ thuật múa đường phố cũng góp phần hóa giải không gian bối cảnh nhếch nhác, lộn xộn xung quanh. Diễn viên biểu diễn giữa đu quay, cầu trượt và bao bọc xung quanh bởi đông đảo bà con cư dân các căn nhà tập thể xung quanh. Tuồng và nghệ thuật truyền thống là món ăn tinh thần xa lạ với cư dân nhà tập thể. Đặc điểm của cư dân các khu tập thể là tính chất nửa quê, nửa đô thành. Đa phần họ đi ra từ một miền quê nào đó, nhưng đã quá lâu rồi, gần như họ không còn ký ức gì với không gian nghệ thuật biểu diễn truyền thống. Còn với loại hình nghệ thuật đường phố như hiphop, krumping cũng không diễn ra ở đây – các khu tập thể phần nào khá bảo thủ, khá dè dặt với những trào lưu nghệ thuật mới. Cấu trúc vở diễn Sơn Hậu – Beyond the moutain mang đặc trưng của nghệ thuật hậu hiện đại, khả năng dung hợp, chuyển hóa các loại hình nghệ thuật rất khác nhau. Sự tiếp nhận hào hứng của công chúng và sự tán thưởng về mặt nghệ thuật của vở diễn. Sơn Hậu là vở tuồng mang chất chính luận ca ngợi tinh thần trung quân ái quốc, ca ngợi sự chính trực, nghĩa hiệp, chất anh hùng ca đã tương tác với chính bối cảnh khu nhà tập thể. Tính chất phức tạp của ngữ cảnh, sự đan xen cũ mới, không gian và đặc tính kiến trúc mở với dãy hành lang kéo dài cho phép mọi người dễ dàng đứng xem từ trên cao.

Nghệ thuật gắn kết cộng đồng, củng cố tinh thần tập thể vốn đang dần phai nhạt sau khi Việt Nam chuyển đổi sang kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa đang dồn ép các giá trị văn hóa cổ truyền, bản địa được xây dựng bao đời đến chỗ suy vong, tàn lụi hay biến dị, lai tạp. Trong công ước Bảo vệ và phát huy sự đa dạng các biểu đạt văn hóa, UNESCO đã sớm cảnh báo mối nguy cơ này.

Sự thay đổi thành phần dân cư ở các khu tập thể đang diễn ra từng ngày. Hàng xóm trước đây phần lớn là đồng nghiệp cùng cơ quan nên thân tình, gắn kết hơn; khi có phát sinh mâu thuẫn thì cũng dễ hòa giải, gắn kết hơn. Nhưng giờ đây, rất nhiều người từ tứ xứ về mua nhà, mang sẵn tâm lý “mất tiền mua mâm có quyền đâm thủng”. Những xung đột, va chạm với hàng xóm diễn ra nhiều hơn. Nếu như các khu chung cư mới có ban quản lý tòa nhà thì các nhà tập thể cũ gần như vô chủ. Cộng đồng dân cư các khu tập thể trước kia dễ tạo dựng sự đồng thuận, đồng lòng thì giờ đây trở nên mong manh. Hoạt động thể thao và nghệ thuật sẽ góp phần gắn kết cộng đồng nơi đây.

Kết luận

Thông qua một vài dự án nghệ thuật đã góp phần đánh thức giá trị của các không gian công cộng, bài viết mong muốn ghi nhận những đóng góp không hề nhỏ bé của nghệ thuật đối với chất lượng sống cộng đồng. Những không gian công cộng trước những nguy cơ bị chiếm dụng, lấn chiếm hay bị bỏ hoang, trở thành nơi đổ phế liệu phế thải đã thay hình đổi dạng, thay da đổi thịt, dưới phép màu nghệ thuật như trong truyện cổ tích biến từ con cóc xấu xí thành hoàng tử khôi ngô tuấn tú. Do sự phát triển nóng của đô thị, rất nhiều cộng đồng có nguy cơ bị bỏ quên, bị tụt lại phía sau, bị thiếu thốn sân chơi, những không gian nghệ thuật. Với 500m nghệ thuật công cộng ở bờ vở Phúc Tân chỉ xem như những bước chân đầu tiên. Nghệ thuật sẽ đánh thức tiềm năng, thay đổi tầm nhìn, để Hà Nội quyết tâm nhìn về Hồng Hà, dòng sông Mẹ. Một Hà Nội cổ kính, thanh lịch, anh hùng sẽ vươn mình đứng dậy ôm dòng sông lịch sử vào lòng. Những khu tập thể từng là niềm tự hào của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, sau bao thập kỷ bị bỏ quên sẽ tìm được những tiếng nói chung, tìm lại được giá trị cốt lõi, những lý tưởng cao đẹp của mình thông qua những dự án nghệ thuật. Mặc dù các dự án nghệ thuật tham gia kiến tạo chất lượng sống, đánh thức các không gian bị quên lãng ở Hà Nội chưa nhiều, nhưng đó là những ví dụ tiêu biểu, những thành công đầu tiên. Hy vọng với sự đồng lòng của các cấp chính quyền, của người dân sở tại, người nghệ sĩ sẽ thực sự là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, góp phần kiến tạo nên những không gian sống nhân văn.

  • Bài viết tham khảo

Trong bài viết: “Đi tìm nguồn gốc vở Tuồng Sơn Hậu” của tác giả Vũ Ngọc Liễn đăng trên nguồn (https://nghiencuulichsu.com/), đã có những thông tin như sau:

Đi tìm nguồn gốc vở tuồng Sơn Hậu

DCC_1250666496San Hậu hay Sơn Hậu là tên một vở tuồng (hát bội) cổ khuyết danh của Việt Nam,  ra đời vào khoảng nửa cuối thế kỉ 18, sau được Đào Tấn chỉnh lý. Đây được coi là vở tuồng cung đình kinh điển của Việt Nam. Tại Nam Bộ, vở này thường được các đoàn hát bội trình diễn trong Lễ Kỳ yên của các đình làng.

Như chúng ta đều biết, pho tuồng Sơn Hậu từ lâu được xếp hạng “tuồng thầy”, có nghĩa là loại vở mẫu mực về nhiều mặt trong kho tàng kịch mục tuồng xưa, loại di sản văn hóa quý của đất nước. Hình như không một thế hệ diễn viên hát Bội nào không trải qua học nghề bằng loại tác phẩm này mà lại có tài.

Ở pho tuồng Sơn hậu chỉ mượn nước ngoài mỗi cái tên thời đại “Tề triều” (nhà Tề), còn nội dung tuồng, hệ thống hình tượng nhân vật thì đố ai tìm ra trong sử sách Trung Quốc hoặc nước nào khác.

Cho đến nay, có hai giả thuyết nhận định về tác giả gốc của tuồng Sơn hậu.

Giả thuyết thứ nhất cho rằng Lê Văn Duyệt là tác giả gốc của tuồng Sơn hậu và do Lê Văn Khôi chấp bút. Giả thuyết này căn cứ vào “lăng ông” Lê Văn Duyệt ở Sài Gòn xưa kia có thờ một kịch bản tuồng Sơn hậu  và hàng năm đến ngày giỗ Lê Văn Duyệt có tục lệ phải diễn tuồng Sơn hậu. Chúng tôi cho rằng dẫn chứng của thuyết thứ nhất chưa có căn cứ khoa học. Xét về tiểu sử, Lê Văn Duyệt không có khả năng sáng tác huống chi sáng tác một vở tuồng như Sơn hậu. Lê Văn Khôi lại càng khó có khả năng chấp bút (1). Rất có thể lúc còn sống Lê Văn Duyệt thích xem tuồng Sơn hậu, rồi khi qua đời thành tục lệ ấy mà thôi.

Giả thuyết thứ hai cho rằng Đào Duy Từ là tác giả gốc của tuồng Sơn hậu. Giả thuyết này căn cứ vào các sự kiện lịch sử như Đào Duy Từ là người Thanh Hóa, con ông Đào Tá Hán “làm nghề hát”, vì bất bình với chế độ vua Lê chúa Trịnh mà vào phương Nam phò chúa Nguyễn chống lại chúa Trịnh. Tên tuồng Sơn hậu liên quan tới câu sấm “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân” của Trạng Trình (Nguyễn Bỉnh Khiêm). Nếu xét về sự kiện lịch sử của thời ấy đối chiếu với nội dung tác phẩm Sơn hậu thì xem chừng cũng có khi có lý! Nhưng khổ nỗi, chúng ta chỉ biết Đào Duy Từ là con nhà “làm nghề hát”, sử cũ còn nói lúc chưa xuất sĩ trong nhà họ Đào ở Bình Định có dạy hát nhưng chưa biết đó là hát ả đào hay hát Bội. Vã lại dù là con nhà hát cũng chưa chắc đã biết hát. Và chẳng lẽ cuộc đời của Đào Duy Từ chỉ viết mỗi vở Sơn hậu ư? Đọc văn thơ của Đào Duy Từ như “Tư Dung Vãn” thấy có những đoạn mang hơi hám văn hát Bội, dù vậy luận cứ của giả thuyết thứ hai cũng chưa đủ cơ sở khoa học để kết luận vấn đề. Vì rằng, sử sách đã chép “Tư Dung Vãn” là của Đào Duy Từ thì còn hà tiện nỗi gì mà không chép Sơn hậu cũng là của Đào Duy Từ nếu nó quả là tác phẩm của ông? Theo chúng tôi, đây là đề tài nghiên cứu khá hấp dẫn còn bỏ ngỏ nhiều năm.

Hiện nay kịch bản tuồng Sơn hậu lưu hành trên cả nước với rất nhiều dị bản. Sự khác biệt về ngôn ngữ văn học giữa các dị bản khoảng cách khá xa, có bản văn rất ngô nghê, sù sì, có bản chen đôi đoạn văn sắc sảo. Nhưng về cốt truyện, về tuyến kịch, về tên nhân vật và tính cách nhân vật thì hình như không cách biệt mấy: Đổng Kim Lân vẫn là trí tướng, Khương Linh Tá vẫn là dũng tướng, Tạ Thiên Lăng vẫn là gian hùng. Tạ Ôn Đình vẫn là gian ác…

 Về ảnh hưởng thì hệ thống hình tượng nhân vật của Sơn hậu thấm đậm vào đời sống nhân dân nhiều thế hệ rất sâu sắc: hễ thấy người nào có khí chất cương trực thì người ta ví ngay, hoặc mệnh danh là Triệu Khắc Thường. Thấy một đôi bạn trẻ kết giao chí thân là người ta ví “hai đứa này như Lân với Tá”. Thấy một kẻ nịnh bợ cỡ bự thì người ta ví “giống như nịnh Thiên Lăng”… Và Sơn hậu cùng với Phụng Nghi đình là hai vở tuồng hát Bội đã góp công khai sáng sân khấu cải lương.

 Sơn hậu gồm ba hồi, diễn nhiều đêm. Mãi đến giờ đây vẫn chưa xác định được tác giả gốc là ai? Nhưng nhiều tài liệu cho biết Đào Tấn từng gia công nhuận sắc tác phẩm này một số câu, một số đoạn. Theo cụ Đặng Thai Mai thì chi tiết Mao Ất chui lỗ chó vào nhà họ Đổng rình rập tìm Thứ phi là do Đào Tấn bổ sung lúc dàn dựng vở Sơn hậu tại Học bộ đình Nghệ An.

Có thể nói gọn nội dung ba hồi của pho tuồng Sơn hậu như sau: nhân cơ hội vua Tề chết, anh em họ Tạ đứng đầu là Tạ Thiên Lăng (Thái sư đương quyền), mưu tiếm ngôi bằng cách lập “Tiểu giang sơn” (cung điện riêng) họp mặt đình thần nói trắng việc mưu đồ tiếm ngôi của mình để dò xét thái độ của đình thần, thu phục những kẻ xu nịnh về phe cánh, tiêu diệt lực lượng chống đối. Biết tin này, Đỗng Kim Lân và Khương Linh Tá (hai quan chức cấp thấp trung thành với nhà Tề) lập tức cử binh đến đánh phá “Tiểu giang sơn”. Trong tình hình nước sôi lửa bỏng, kế hoạch tác chiến không ăn khớp, Khương Linh Tá đến chậm giờ hẹn nên Đổng Kim Lân đến trước bị cô thế phải trá hàng. Và thế là cuộc chính biến của anh em họ Tạ thành công. Chúng hạ ngục Thứ phi đang mang thai, chờ ngày sinh đẻ xong sẽ hành quyết, Thái giám Lê Tử Trình cũng trá hàng xin được chân giữ tù Thứ phi để tìm phương cứu giải. Theo cụ Phạm Phú Tiết thì cái “Tiểu giang sơn” của họ Tạ trong tuồng Sơn hậu có dáng dấp cái phủ chúa thời Lê-Trịnh.

Sau vụ đánh phá “Tiểu giang sơn” thất bại, Đổng Kim Lân và Khương Linh Tá hợp sức dò xét rồi liên kết với Lê Tử Trình cứu thoát được mẹ con Thứ phi đưa đến “Sơn hậu thành” lấy nơi đây làm căn cứ địa tập hợp lực lượng để phục thù.

Ở biên ải, Phàn Định Công (cha của Thứ phi) nghe tin chính biến bèn cử binh về triều hỏi tội bon tiếm ngôi. Rủi thay, giữa đường bị gió to gãy cờ soái, ông tức giận đến thổ huyết mà chết. Việc binh nước trao lại cho con là Phàn Diệm. Cuối cùng Phàn Diệm thay cha giữ thành Sơn hậu hợp sức với Kim Lân phản công, thu phục lại cơ nghiệp nhà Tề.

Rất rõ ràng, ở Sơn hậu tác giả thông qua sự kiện tiếm ngôi và cuộc chiến đấu không cân sức giữa chính nghĩa với gian tà (hiện thực phổ biến trong các vương triều phong kiến) nhằm biểu hiện chủ nghĩa anh hùng bất tử. Khương Linh Tá ba lần bị Tạ Ôn Đình chém rơi đầu vẫn tháp lại đầu tiếp tục chiến đấu ngăn quân Tạ để cho Đổng Kim Lân thoát nạn. Mãi đến khi sức cùng lực kiệt thì hóa thành ngọn đèn soi đường cho Đổng Kim Lân vượt khỏi rừng núi hiểm nghèo. Bằng bút pháp nghệ thuật lãng mạn sáng ngời, tác giả sáng tạo tình tiết kịch dường như không thực nhưng lại rất thực, thực hơn cả sự thật. Tác giả còn điều khiển thời gian phục tùng chủ nghĩa yêu nước: “Xưa có kẻ lo vì việc nước, bỗng nửa đêm mọc lại mặt trời” (Đổng Kim Lân – lớp qua đèo). Còn khái niệm ái quốc gắn liền với trung quân ở đây thuộc phạm trù lịch sử, bối cảnh lịch sử, không thể nào khác được. Vấn đề ở chỗ nên lập vua nào, phế vua nào mà thôi. Hình tượng hoàng tử quả có màu sắc huyết thống của ý thức hệ phong kiến chi phối. Song chúng ta cũng cần thấy rằng hoàng tử ở đây chỉ là một đứa trẻ vô tội trong tình thế nguy hiểm như vậy có lẽ nào lại chẳng phải là một hành động nhân đạo cao cả (?).

Chúng tôi cho rằng: Sơn hậu, một vở “tuồng thầy” không chỉ mẫu mực về nghệ thuật biểu diễn mà ở bình diện nội dung cũng đạt tiêu chuẩn mẫu mực về chủ nghĩa nhân văn Việt Nam rất cần cho đời sống tinh thần của nhân dân ngàn xưa và ngàn sau. Ở bình diện xây dựng hình tượng nhân vật kịch thì đạt tiêu chuẩn mẫu mực về sáng tạo tính cách: bốn anh em họ Tạ đều là cánh họ nịnh, hoặc cái nòi nịnh vậy mà tính cách mỗi người một khác, Thiên Lăng gian hùng, Ôn Đình gian ác, Lôi Phong gian manh, Lôi Nhược vừa gian trá vừa ngây ngô. Về phía phe trung cũng vậy, Triệu Khắc Thường cương trực, Khương Linh Tá vũ dũng, Đỗng Kim Lân cơ trí, Lê Tử Trình nhu nhược. Ngay ở trong dòng họ nịnh cũng xuất hiện một Nguyệt Hạo (tức Nguyệt Cảo) rất trung hậu, và tuy là nịnh nhưng bọn em Nguyệt Hạo vẫn có chút tình với chị, biết thương chị. Có thể nói, tác giả cố ý điểm một chấm đỏ trên mảng màu đen, viền một đường vàng chung quanh sắc đỏ, chứ không miêu tả tính cách một cách đơn điệu, khô khan. Còn về kết cấu kịch thì tác giả bố trí chặt chẽ đến độ bền vững, nếu tháo dở ráp lại không khéo tay dễ bị xộc xệch.

 Như vậy, pho tuồng Sơn hậu tồn tại đến ngày nay đã trải qua nhiều lớp nghệ sĩ hát Bội cả ba miền đất nước dồn sức sáng tạo bồi đắp cho tác phẩm này, diện mạo ban đầu giờ đây không còn nhìn thấy được nữa. Cho nên nếu căn cứ vào hai truyền thuyết chưa đủ căn cứ mà tôi đã trình bày trên đây rồi qui công cho Lê Văn Duyệt hay Đào Duy Từ là điều không nên.

 Vâng, truyền thuyết là dã sử cần được tôn trọng, song hiện tượng dã sử này lại rất khó tin, chấp nhận một hiện tượng lich sử khó tin đồng nghĩa với làm sử giả.

………………………………………………………………………..

(1) Lê Văn Duyệt là tướng tâm phúc của vua Gia Long, về sau bị Minh Mệnh giết. Tuy làm quan to nhưng khả năng chữ nghĩa của Lê Văn Duyệt rất hiếm hoi. Lê Văn Khôi là con nuôi của Lê Văn Duyệt, gốc dân tộc ít người, không thạo văn chương.

(2) Chưa rõ điển tích, nhưng dù căn cứ điển tích nào chăng nữa thì bút pháp lãng mạn của tác giả Sơn hậu cũng tuyệt vời. Hàm ý câu tuồng muốn nói rằng: chỉ cần bạn có tấm lòng yêu nước thì bạn có thể đảo ngược lại vũ trụ. Chất lãng mạn của câu tuồng cùng một dòng tư duy nghệ thuật với tình tiết: Khương Linh Tá ba lần bị chém rơi đầu, ba lần tháp lại đầu để tiếp tục chiến đấu.

____________________

Tài liệu tham khảo

1. Narumi và cộng sự, Locations and Transformations of the Collective Housing Areas Built under the Socialism System in Hanoi, Annual Report of FY 2004 (Vị trí và sự biến đổi của các khu tập thể ở Hà Nội trong thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, Báo cáo tài chính thường niên năm 2004), Hội Xúc tiến khoa học của Nhật Bản và Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 2005, tr.75-83.

2. Philippe Papin, Histoire de Hanoi (Lịch sử Hà Nội), Nxb Thế giới, Hà Nội, 2016.

3. William S. Logan, Hanoi: Biography of a City (Hà Nội: Tiểu sử một đô thị), Nxb Hà Nội, 2010.

4. Dương Tất Thành, Giá trị lịch sử – văn hóa của các khu tập thể cũ ở Hà Nội: Nghiên cứu trường hợp khu tập thể Trung Tự, Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, tập 5, số 1, 2019, tr.128-140.

5. Lê Phước Anh, Architecture, paysages, identités: approches urbaines appliquées au cas du Lac de l’Ouest à Hanoi (Kiến trúc, cảnh quan, căn tính nhận diện: cách tiếp cận đô thị áp dụng trong trường hợp Hồ Tây ở Hà Nội), Université Toulouse le Mirail – Toulouse II, 2016.

6. Jürgen Habermas, The structural transformation of the public sphere (Sự chuyển đổi cấu trúc của khu vực công cộng), The MIT Press; 5th or later Edition, 1991.

7. Nami Hong, Saehoon Kim, Persistence of the socialist collective housing areas (KTTs): the evolution and contemporary transformation of mass housing in Hanoi, Vietnam (Sự tồn tại của các khu nhà ở tập thể xã hội chủ nghĩa (KTT): sự phát triển và chuyển đổi hiện đại của nhà ở tập thể ở Hà Nội, Việt Nam).

8. Bùi Phương Ngọc, The Rehabilitation of the Socialist Collective Living Quarter in Hanoi: Case Study: Nguyen Cong Tru Quarter (Sự phục hồi của khu tập thể xã hội chủ nghĩa ở Hà Nội: Nghiên cứu trường hợp tại khu vực Nguyễn Công Trứ), Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Bách khoa thành phố Milan, Italy, 2017.

9. Minh Đức, Chủ tịch Quốc hội: “Dân chủ là để dân được mở miệng ra”vtc.vn, 18-2-2016.

TS TRẦN YÊN THẾ

Nguồn: Tạp chí VHNT số 557, tháng 1-2024

____________________

Tham luận tại Hội thảo “Thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 – Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn” do Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật tổ chức (9-2023).

BÀI LIÊN QUAN

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

PHỔ BIẾN

BÌNH LUẬN