Chủ Nhật, Tháng Mười 20, 2024
Trang chủ Blog Trang 84

Những ca khúc gắn liền với tên tuổi nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển

0
Những ca khúc gắn liền với tên tuổi nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển

Tác giả: Thạch Anh

Nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển để lại hơn 300 bài hát, trong đó có những ca khúc nổi tiếng như Thu, hát cho người, Điệu buồn phương Nam, Đêm gành hào nhớ điệu hoài lang…

Những ca khúc gắn liền với tên tuổi nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển Nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển để lại nhiều ca khúc ấn tượng cho nền âm nhạc Việt (ẢNH: TL)

Thông tin nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển qua đời hôm 6.5 khiến nhiều người yêu mến dòng nhạc quê hương không khỏi tiếc nuối. Trong cuộc đời của mình, nam nhạc sĩ hoạt động ở nhiều lĩnh vực, để lại hơn 2.000 bài báo, 50 quyển sách. Trong vai trò một người nhạc sĩ, Vũ Đức Sao Biển sáng tác hơn 300 bản tình ca, trong đó đáng chú ý là những ca khúc mang giai điệu nhẹ nhàng, sâu lắng gợi nhớ quê hương như Điệu buồn phương Nam, Đêm gành hào nghe điệu hoài lang, Đau xót lý chim quyên, Trở lại Bạc Liêu…

Thu, hát cho người

Nhắc đến Vũ Đức Sao Biển, người ta nhớ ngay đến Thu, hát cho người. Ca khúc sáng tác năm 1968 mà theo lời nhạc sĩ là lúc ông trong trạng thái “lên đồng”. Khi ấy nam nhạc sĩ ngồi một mình trong chiều thu vàng ruộm với ngàn hoa sim tím đẹp mênh mông và viết nên bản nhạc này. “Theo tôi, Thu, hát cho người có sức sống bền bỉ vì nó là một bài tình ca đẹp về giai điệu, giàu tính tư tưởng và tính nghệ thuật về ca từ. Nó ra đời ở năm đôi mươi khi người ta còn rất trẻ, nỗi si tình cũng mới tinh khôi. Âm nhạc là một trong bảy nghệ thuật nên ca từ của ca khúc phải đẹp, nếu không đẹp thì không phải là âm nhạc ca khúc. Tôi thích viết ca từ đẹp”, nam nhạc sĩ từng chia sẻ.

Sự ra đi của nhạc sĩ Điệu buồn phương Nam khiến nhiều người yêu dòng nhạc quê hương không khỏi tiếc nuối (ẢNH: TL)

Điệu buồn phương Nam

Điệu buồn phương Nam là một trong những ca khúc nổi tiếng khi nhắc đến nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển. Bài hát ra đời năm 1994 với giai điệu buồn, khiến nhiều người thổn thức nhớ về quê hương với nhiều hình ảnh quen thuộc như cung đàn, con sáo… Trong sáng tác này, nam nhạc sĩ vận dụng ngũ cung nhằm tạo cảm giác gần gũi cho người nghe. Điệu buồn phương Nam từng được nhiều ca sĩ như Hương Lan, Thùy Trang thể hiện khá thành công.

Đau xót lý chim quyên

Vũ Đức Sao Biển sáng tác Đau xót lý chim quyên năm 1994 với giai điệu đậm chất dân ca Nam bộ. Trong đó, câu ca dao “Chim quyên ăn trái nhãn lồng/Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi” được ông lồng ghép khéo léo, giúp ca khúc gần gũi hơn với người dân Nam Bộ. Bài hát được ca sĩ Hương Lan thể hiện thành công.

Vũ Đức Sao Biển sáng tác nhiều ca khúc về Nam bộ với ca từ quen thuộc, gần gũi với người dân (ẢNH: TL)

Đêm gành hào nhớ điệu hoài lang

Bài hát Đêm gành hào nhớ điệu hoài lang tiếp tục là một thành công của nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển khi theo đuổi dòng nhạc quê hương. Ca khúc được viết dựa trên câu chuyện có thật, khi nam nhạc sĩ có dịp trở về thăm lại Bạc Liêu, nơi ông từng sinh sống thời gian dài. Theo lời kể của nam nhạc sĩ, trong một đêm trăng sáng, ông ngồi trên sông và có nghe tiếng radio vọng lại bản Dạ cổ hoài lang nên lấy ý tưởng sáng tác. Bài hát mang giai điệu buồn nhưng gần gũi, ca từ đơn giản và có sự lồng ghép khéo léo ca khúc Dạ cổ hoài lang.

Mẹ Cửu Long

Ca khúc Mẹ Cửu Long được ông hoàn thành chỉ sau một đêm với những cảm xúc dạt dào. Bài hát được ông viết dựa trên câu chuyện có thật mà ông nghe được từ chuyến đi miền Tây vào năm 2001. “Khi tôi ghé miền Tây tình cờ nghe được câu chuyện về người mẹ hi sinh lao xuống dòng nước cứu con mình trong mùa nước nổi. Hình tượng người mẹ, người phụ nữ Nam bộ lúc đó để lại dấu ấn sâu đậm trong cảm xúc của tôi nên khi đêm đến tôi viết ngay ca khúc Mẹ Cửu Long này”, ông kể. Bài hát này được Phi Nhung thể hiện thành công và nhận được sự yêu mến của khán giả.

Trở lại Bạc Liêu

Theo lời của ca sĩ Thùy Trang, nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển từng có thời gian dài sinh sống tại Bạc Liêu. Vì vậy trong các sáng tác mà ông viết về Nam bộ thì Bạc Liêu là vùng đất được nam nhạc sĩ nhắc đến nhiều nhất. Bài hát Trở lại Bạc Liêu bày tỏ tình cảm của tác giả dành cho vùng đất nơi đây trong dịp trở lại thăm.

(Nguồn: https://thanhnien.vn/)

 

 

 

 

Quy chế tổ chức cuộc thi Độc tấu và Hòa tấu nhạc cụ dân tộc toàn quốc 2020

0
Quy chế tổ chức cuộc thi Độc tấu và Hòa tấu nhạc cụ dân tộc toàn quốc 2020

Thực hiện Quyết định số 121/QĐ-BVHTTDL ngày 09 tháng 01 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch phê duyệt kế hoạch công tác năm 2020 của Cục Nghệ thuật biểu diễn; Quyết định số 611/QĐ-BVHTTDL ngày 02 tháng 03 năm 2018 cua Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch phê duyệt “Đề án điều chỉnh tổ chức Cuộc thi, Liên hoan nghệ thuật chuyên nghiệp trong 03 năm 2013 – 2020”, Cục Nghệ thuật biểu diễn chủ trì, phối hợp với Hội Nhạc sĩ Việt Nam và các đơn vị liên quan tổ chức “Cuộc thi Độc tấu và Hòa tẩu nhạc cụ dân tộc toàn quốc – 2020”.

I. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA

“Cuộc thi Độc tấu và Hòa tấu nhạc cụ dân tộc toàn quốc – 2020” là hoạt động nghề nghiệp nhằm tôn vinh, quảng bá, bảo tồn và phát huy các giá trị của âm nhạc Việt Nam, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Cuộc thi là dịp để các nghệ sĩ biểu diễn nhạc cụ dân tộc tại các đơn vị nghệ thuật, các giảng viên, học sinh, sinh viên đang giảng dạy, học tập chuyên ngành nhạc cụ dân tộc tại các cơ sở đào tạo nghệ thuật thể hiện khả năng cá nhân; giao lưu, trao đổi, học tập kinh nghiệm trong hoạt động nghệ thuật; bảo tồn, gìn giữ, phát huy những tinh hoa âm nhạc truyền thống Việt Nam, từ đó rút ra những bài học về công tác quản lý, đào tạo bồi dưỡng, phát triển tài năng và tìm ra những phương thức hoạt động góp phần thúc đẩy các loại hình âm nhạc truyền thống phát triển trong thời kỳ mới.

II. THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM 

– Thời gian: Tổ chức trong 06 ngày, từ ngày 18 đên 23 tháng 9 năm 2020.

– Địa điểm: Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

III. ĐỐI TƯỢNG THAM DỰ

Các tổ chức, cá nhân nghệ sĩ đang giảng dạy, biểu diễn nhạc cụ dân tộc tại các đơn vị biểu diễn nghệ thuật công lập, ngoài công lập và các cơ sở đào tạo nghệ thuật trong toàn quốc.

IV. CÁC QUY ĐỊNH CỦA CUỘC THI

Các tổ chức, cá nhân nghệ sĩ tham gia Cuộc thi chấp hành đúng các quy định của pháp luật về quyền tác giả và về biêu diễn nghệ thuật hiện hành.

Tổ chức, cá nhân đăng ký tham dự Cuộc thi theo 04 Bảng.

Bảng 1: Hòa tấu dành cho các đơn vị kịch hát dân tộc

Gồm các tổ chức (dàn nhạc, nhóm nhạc) hoạt động trong loại hình sân khấu ca kịch dân tộc (Tuồng, Chèo, Cải lương, Đờn ca tài tử, Dân ca Kịch).

Nội dung thi: Các tác phẩm tham gia thi là bài bản cổ nhạc, làn điệu trong các loại hình sân khấu ca kịch dân tộc, nguyên bản hoặc được chỉnh lý, cải biên, phát triển và sáng tác mới nhưng vẫn giữ được những phong cách đặc trưng của loại hình nghệ thuật và phải được trình diễn trực tiếp bằng nhạc cụ dân tộc. Có thể sử dụng giọng ca cùng tham gia trình diễn nhưng không được giữ vai trò chính. Không sử dụng nhạc cụ điện tử, dàn nhạc đệm được thu thanh trước.

Bảng 1 dành cho hình thức hòa tấu, gồm 03 tác phẩm (thời lượng từ 3 đến 7 phút/01 tác phẩm) như sau:

– 01 tác phẩm cơ bản, làn điệu truyền thống;

– 02 tác phẩm cải biên, chỉnh lý, phát triển cơ bản, làn điệu truyền thống hoặc tác phẩm sáng tác và phối khí mới trên cơ sở phong cách đặc trưng của loại hình.

Có thể kết cấu thành chương trình hòa tấu. Thời lượng chương trình không dưới 15 phút.

Bảng 2: Hòa tấu dành cho các đơn vị Ca Múa Nhạc, Học viện Âm nhạc, Nhạc viện

Gồm các tổ chức (dàn nhạc, nhóm nhạc) hoạt động trong loại hình Ca nhạc dân tộc. (đơn vị biểu diễn Ca Múa Nhạc, Nhạc viện…).

Các tác phẩm trong chương trình là tác phẩm do các nhạc sĩ sáng tác dựa trên những làn điệu âm nhạc truyền thống Việt Nam được hòa âm, phối khí mới cho hòa tấu nhạc cụ dân tộc.

Các tác phẩm phải được trình diễn trực tiếp bằng nhạc cụ dân tộc. Được sử dụng nhạc cụ điện tử, vocal nhưng không tham gia với vai trò chính trong dàn nhạc. Không sử dụng dàn nhạc đệm được thu thanh trước.

Bảng 2 dành cho hình thức hòa tấu, gồm 03 tác phẩm (thời lượng từ 5 đến 7 phút/01 tác phẩm) như sau:

– 01 tác phẩm hòa tấu làn điệu dân ca truyền thống nguyên bản hoặc có thể được cải biên, phát triển;

– 01 tác phẩm sáng tác và phối khí mới của các nhạc sĩ Việt Nam trên cơ sở phong cách đặc trưng của các làn điệu dân ca các dân tộc Việt Nam;

– 01 tác phẩm nhạc nước ngoài (các nước trong khối ASEAN) được chuyển soạn, phối khí cho hòa tấu nhạc cụ dân tộc.

Có thể kết cấu thành chương trình hòa tấu. Thời lượng chương trình không dưới 15 phút.

Bảng 3: Độc tấu dành cho nghệ sĩ thuộc các đơn vị Ca Múa Nhạc, Học viện âm nhạc, Nhạc viện và các nghệ sĩ ngoài công lập

– Các loại nhạc cụ tham gia thi gồm: Bầu, Tranh, Sáo, Nhị, Nguyệt, Tam Thập Lục, Tỳ Bà, T’rưng, Bộ gõ và các nhạc cụ khác (ít phổ biến hoặc nhạc cụ chuyên biệt của văn hỏa các vùng miền);

– Ban Tổ chức sẽ tổ chức thi khi có ít nhất 07 thí sinh đăng ký thi trở lên/01 loại nhạc cụ. Nếu không đủ số lượng thí sinh, Ban Tổ chức sẽ gộp vào phần thi các nhạc cụ khác và xét giải thưởng chung;

– Mỗi thí sinh trình diễn 02 tác phẩm (thời lượng từ 04 – 07 phút/01 tác phẩm) thể hiện được tốt nhất kỹ thuật, kỹ xảo sử dụng nhạc cụ của cá nhân. Được phép sử dụng nhiều nhất 01 tác phẩm nước ngoài.

Bảng 4: Độc tấu dành cho nghệ sĩ thuộc các đơn vị kịch hát dân tộc

Các nghệ sĩ đăng ký theo 04 bộ nhạc cụ:

– Các nhạc cụ thuộc Bộ Hơi;

– Các nhạc cụ thuộc Bộ Gẩy;

– Các nhạc cụ thuộc Bộ Gõ;

– Các nhạc cụ thuộc Bộ Kéo;

Mỗi thí sinh trình diễn 02 tác phẩm (thời lượng từ 03 – 07 phút/01 tác phẩm) thể hiện được tốt nhất kỹ thuật, kỹ xảo sử dụng nhạc cụ của cá nhân. Tổ chức thi theo từng bộ nhạc cụ.

– Ban Tổ chức sẽ tổ chức thi khi có ít nhất 07 thí sinh đăng ký thi trở lên/01 bộ nhạc cụ. Nếu không đủ số lượng thí sinh, Ban Tổ chức sẽ gộp vào phần thi các nhạc cụ khác và xét giải thưởng chung.

V. HỘI ĐỒNG GIÁM KHẢO

Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành lập Hội đồng Giám khảo gôm 07 thanh viên là các nhạc sĩ, nghệ sĩ, nhà nghiên cứu, quản lý nghệ thuật có uy tín, tài năng và có nhiều đóng góp trong sự nghiệp phát triển ngành nghệ thuật biêu diễn, đặc biệt là chuyên ngành biếu diễn nhạc cụ dân tộc.

VI. TIÊU CHÍ XÉT GIẢI THƯỞNG

Hội đồng Giám kháo xét giải thưởng theo những tiêu chí cụ thể sau:

Về kỹ thuật: Hội đồng Giám khảo đánh giá chất lượng biểu diễn của các thí sinh thông qua kỹ thuật, kỹ xảo của người nghệ sĩ sử dụng nhạc cụ một cách điêu luyện, thực hiện trọn vẹn và sáng tạo các tác phẩm âm nhạc viết cho độc tấu; sự phối hợp chặt chẽ, chính xác, hài hòa giữa các nhạc cụ, thực hiện trọn vẹn và sáng tạo các tác phẩm âm nhạc viết cho hòa tấu.

Về nghệ thuật: Hội đồng Giám kháo đánh giá thí sinh thông qua chất lượng nghệ thuật của tác phẩm được biểu diễn, thể hiện đúng phong cách của từng loại hình, tác giả, tác phẩm; bộc lộ rõ nét đặc trưng âm nhạc của từng vùng, miền; xử lý nội dung tác phẩm, làn điệu âm nhạc một cách sáng tạo, tinh tế; trình diễn lôi cuốn, hấp dẫn và chuyên nghiệp; hình thức thể hiện phong phú, đa dạng.

VII. GIẢI THƯỞNG

Cơ cấu giải thưởng của Cuộc thi gồm:

Bảng 1: 01 Giải Nhất, 01 Giải Nhì, 02 Giải Ba và các Giải Khuyến khích cho các nhóm hòa tấu gắn với tên đơn vị.

Bảng 2: 01 Giải Nhất, 01 Giải Nhì, 02 Giải Ba và các Giải Khuyến khích cho các nhóm hòa tấu gắn với với tên đon vị.

Bảng 3: Nếu đủ số lượng thí sinh tham gia phần thi độc tấu cho mỗi loại nhạc cụ (07 thí sinh trở lên), Ban Tổ chức sẽ trao các giải thưởng:

– 01 Giải Nhất, 01 Giải Nhì, 01 Giải Ba và Giải Khuyến khích cho các thí sinh tham gia độc tấu Đàn Bầu;

– 01 Giải Nhất, 01 Giải Nhì, 01 Giải Ba và Giải Khuyến khích cho các thí sinh tham gia độc tẩu Đàn Tranh;

– 01 Giải Nhất, 01 Giải Nhì, 01 Giải Ba và Giải Khuyến khích cho các thí sinh tham gia độc tấu Sáo;

– 01 Giải Nhất, 01 Giải Nhì, 01 Giải Ba và Giải Khuyến khích cho các thí sinh tham gia độc tấu Nhị;

– 01 Giải Nhất, 01 Giải Nhì, 01 Giải Ba và Giải Khuyến khích cho các thí sinh tham gia độc tấu Đàn Nguyệt;

– 01 Giải Nhất, 01 Giải Nhì, 01 Giải Ba và Giải Khuyến khích cho các thí sinh tham gia độc tấu Đàn Trưng;

– 01 Giải Nhất, 01 Giải Nhì, 01 Giải Ba và Giải Khuyến khích cho các thí sinh tham gia độc tấu Tam Thập Lục;

– 01 Giải Nhất, 01 Giải Nhì, 01 Giải Ba và Giải Khuyến khích cho các thí sinh tham gia độc tấu Bộ Gõ;

– 01 Giải Nhất, 01 Giải Nhì, 01 Giải Ba và Giải Khuyến khích cho các thí sinh tham gia độc tấu Đàn Tỳ Bà;

– 01 Giải Nhất, 01 Giải Nhì, 01 Giải Ba và Giải Khuyến khích cho các thí sinh tham gia độc tấu các loại nhạc cụ khác.

Bảng 4: Nếu đủ số lượng thí sinh tham gia phần thi theo từng bộ môn (07 thí sinh trở lên), Ban Tổ chức sẽ trao các giải thưởng:

– 01 Giải Nhất, 01 Giải Nhì, 01 Giải Ba và Giải Khuyến khích cho Các thí sinh tham gia độc tấu nhạc cụ thuộc thuộc Bộ Hơi;

– 01 Giải Nhất, 01 Giải Nhì, 01 Giải Ba và Giải Khuyến khích cho Các thí sinh tham gia độc tấu nhạc cụ thuộc thuộc Bộ Gẩy;

– 01 Giải Nhất, 01 Giải Nhì, 01 Giải Ba và Giải Khuyến khích cho Các thí sinh tham gia độc tấu nhạc cụ thuộc thuộc Bộ Gõ;

– 01 Giải Nhất, 01 Giải Nhì, 01 Giải Ba và Giải Khuyến khích cho Các thí sinh tham gia độc tấu nhạc cụ thuộc thuộc Bộ Kéo;

Giải thưởng Cuộc thi gồm giấy chứng nhận giải thưởng kèm theo tiền thưởng của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Căn cứ vào cơ cấu giải thưởng và kết quả đánh giá của Hội đồng Giám khảo, giải thưởng được lấy từ điểm số cao xuống thấp, số lượng giải thưởng không nhất thiết phải đảm bảo theo cơ cấu trên nếu chất lượng nghệ thuật của các tổ chức, cá nhân tham gia Cuộc thi không đạt tiêu chí trong Quy chế này.

Các trường hợp đặc biệt, Ban Tố chức sẽ báo cáo, xin ý kiến Ban Chỉ đạo quyết định.

VIII. KINH PHÍ

Kinh phí Cuộc thi được thực hiện theo quy định tại “Đề án tổ chức các Cuộc thi, Liên hoan nghệ thuật chuyên nghiệp giai đoạn 2013 – 2020” ban hành theo Quyết định số 611/QĐ-BVHTTDL ngày 02 tháng 03 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ văn hoá, Thể thao và Du lịch.

– Ban Tổ chức lo kinh phí tổ chức, kinh phí giải thưởng, kinh phí tổ chức Hội thảo trong khuôn khổ Cuộc thi;

– Địa phương đăng cai tổ chức chịu trách nhiệm kinh phí địa điểm biểu diễn (bao gồm sân khấu, điện nước, máy lạnh, an ninh trật tự, y tế, phòng chảy chừa cháy…), trang trí khánh tiết trong và ngoài địa điểm diễn ra Cuộc thi; công tác tuyên truyền quảng cáo tại địa phương theo yêu cầu của Ban Tổ chức; tổ chức truyền hình trực tiếp đêm Khai mạc, Bế mạc trên sóng Đài Phát thanh và Truyền hình của địa phương;

– Đơn vị, cá nhân tham gia Cuộc thi lo kinh phí dàn dựng chương trình, tiết mục; kinh phí đi về, ăn ở tại địa điểm diễn ra Cuộc thi.

IX. TỔ CHỨC THỤC HIỆN

Quy chế Tổ chức được Ban Tổ chức đăng tải trên trang tin điện tử của Cục nghệ thuật biểu diễn và được gửi đến Sở Văn hóa, Thế thao và Du lịch; Sở Văn hóa và Thể thao các tỉnh, thành phố; Tổng Cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; Tổng cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dân; Đài Tiếng nói Việt Nam; các đơn vị Nghệ thuật trong và ngoài công lập biểu diễn loại hình âm nhạc dân tộc; các cơ sở đào tạo chuyên ngành biểu diễn âm nhạc dân tộc toàn quốc để biết và tổ chức triển khai thực hiện.

Đăng ký tham gia Cuộc thi gửi về Cục Nghệ thuật biểu diễn trước ngày 15 tháng 8 năm 2020. Địa chỉ: 32 Nguyễn Thái Học, Ba Đình, Hà Nội.

Quy chế này thay thế cho Quy chế số 717 QC-NTBD ngày 13 tháng 12 năm 2019 của Cục Nghệ thuật biểu diễn, có hiệu lực kể từ ngày được công bố. Việc sửa đổi, bổ sung chỉ thực hiện khi có sự đồng ý bằng văn bản của Ban Tổ chức và được phép của Ban Chỉ đạo. Cục Nghệ thuật biểu diễn đề nghị Lãnh đạo các đơn vị căn cứ quy chế Tổ chức, báo cáo các cơ quan chủ quản, chuẩn bị về mọi mặt, tạo điều kiện để các nghệ sĩ tham dự “Cuộc thi Độc tấu và Hòa tấu nhạc cụ dân tộc toàn quốc – 2020” đạt kết quả cao.

BAN TỔ CHỨC

(Nguồn: https://hoinhacsi.vn/)

 

Cuộc vận động sáng tác tác phẩm Âm nhạc và Sân khấu hướng đến kỷ niệm 45 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và chào mừng các sự kiện

0
Một số thể loại âm nhạc cổ điển (P2)

UBND TP Hồ Chí Minh tổ chức cuộc vận động sáng tác tác phẩm âm nhạc và sân khấu hướng đến kỷ niệm 45 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2020) và chào mừng các sự kiện trọng đại của đất nước đến hết ngày 30/7/2020.

Theo Kế hoạch, tất cả các tác giả chuyên và không chuyên trên phạm vi cả nước đều được tham gia cuộc vận động. Mỗi tác giả được gửi tối đa không quá 2 tác phẩm. Các thành viên Ban Tổ chức, Hội đồng chấm giải và Tổ Thư ký không được gửi tác phẩm tham dự.

Với chủ đề “Mãi mãi một tình yêu”, các tác phẩm phải thể hiện được lòng biết ơn sâu sắc, những thành tựu to lớn mà Đảng bộ, chính quyền và nhân dân TP đạt được sau hơn 50 năm thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; thể hiện được truyền thống yêu nước, anh hùng, sự năng động, sáng tạo, nghĩa tình của nhân dân TP; nêu bật được thành tựu văn hóa, kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, an sinh xã hội của TP qua 45 năm xây dựng, phát triển và hội nhập; cổ vũ, phát huy truyền thống tốt đẹp, đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết, phong trào thi đua yêu nước; hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh trong thời hội nhập.

Các tác phẩm, kịch bản được sáng tác trong thời gian từ ngày 1/1/2017 đến ngày 30/7/2020 nhưng chưa từng đạt giải cao tại các cuộc thi, liên hoan, hội diễn nghệ thuật chuyên nghiệp toàn quốc, các cuộc vận động sáng tác cấp quốc gia và Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TP Hồ Chí Minh 5 năm.

Về âm nhạc gồm: thanh nhạc (nhạc kịch, thanh xướng kịch, hợp xướng, trường ca, ca khúc) và khí nhạc (giao hưởng và các thể loại khí nhạc khác). Về sân khấu gồm các thể loại cải lương, hát bội, kịch nói.

Các tác phẩm dự thi gửi về: Sở Văn hóa và Thể thao, số 164 Đồng Khởi, phường Bến Nghé, quận 1. Liên hệ trực tiếp: Phòng Nghệ thuật – Sở Văn hóa và Thể thao (Điện thoại: 0906891248; Fax: 038.223221; Email: nghethuat.svhtt@tphcm.gov.vn).

Ban Tổ chức sẽ trao giải thưởng cho mỗi chuyên ngành gồm: 1 giải A trị giá 100 triệu đồng/giải; 2 giải B trị giá 80 triệu đồng/giải; 3 giải C trị giá 50 triệu đồng/giải và 5 giải khuyến khích trị giá 30 triệu đồng/giải.

Lễ công bố, trao giải dự kiến được tổ chức vào dịp chào mừng Lễ Quốc khánh 2/9 và các sự kiện quan trọng của đất nước, tại Nhà hát TP, số 7 Công trường Lam Sơn, phường Bến Nghé, quận 1./.

(Nguồn: http://dangcongsan.vn/)

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Quy chế và Phiếu đăng ký:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

PHIẾU ĐĂNG KÝ THAM DỰ

Kính gửi: Ban Tổ chức Cuộc vận động sáng tác tác phẩm Âm nhạc

   và Sân khấu với chủ đề: “Mãi mãi một tình yêu”

1. Tên cá nhân/tổ chức đăng ký tham dự:………………………………………………………………………………

2. Địa chỉ liên hệ: ……………………………………………………………………………………………………………………

3. Phương tiện liên lạc:

Điện thoại cố định:……………………….. Fax:………………………………………….

Email: ……………………………………………………………………………………………………………

4. Thông tin bổ sung:

– Nếu là cá nhân:

Ngày sinh: ……………………………………………………………………………………………………………………

Số CMND/số hộ chiếu: ………………………. Ngày cấp: ……………………  tại: …..……………………………

– Nếu là tổ chức:

Họ và tên người đại diện:……………………………………. Chức vụ:…………………….

Ngày sinh: …………………………………………………………………………………………………..

Số CMND/số hộ chiếu:…………………….. Ngày cấp:…………………..tại:………………………..…………………

5. Số lượng mẫu tác phẩm tham dự kèm kịch bản, nhạc bản, đĩa ghi âm, ghi hình:….

 

6. Cam kết tuân thủ Quy chế Cuộc vận động:

Sau khi nghiên cứu kỹ Thể lệ Cuộc vận động, tôi/chúng tôi tự nguyện đăng ký tham gia Cuộc vận động sáng tác tác phẩm Âm nhạc và Sân khấu với chủ đề “Mãi mãi một tình yêu” và cam kết thực hiện nghiêm túc các điều khoản đã được quy định trong Quy chế do Ban Tổ chức Cuộc vận động ban hành.

Tôi/Chúng tôi cam đoan các tác phẩm này là do tôi/chúng tôi tự sáng tác, không sao chép dưới bất kỳ hình thức nào, chưa từng công bố, sử dụng và chịu trách nhiệm trước pháp luật khi có sự tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ.

                                             ……………….., ngày…… tháng …… năm 2020

                                                                  Người tham dự/Người đại diện

                                                            (Ký, đóng dấu (nếu có) và ghi rõ họ tên)

Thông báo bổ sung thông tin Hội viên

0
THÔNG BÁO HOÃN SINH HOẠT HÀNG THÁNG

Kính gửi: Hội viên Hội Âm nhạc Hà Nội

Để hoàn thiện cơ sở dữ liệu vHội viên của Hội Âm nhạc Hà Nội, xây dựng trang web và tiến tới làm kyếu của Hội trong thời gian tới, đề nghị Hội viên khai thông tin và nộp một số nội dung sau:

1. Khai thông tin hội viên bổ sung theo mẫu gửi kèm.

2. Gửi kèm ảnh chụp chân dung đẹp, nghệ thuật

3. Từ 5-7 bài hát tâm đắc nhất (văn bản và âm thanh)

Thông tin, bài hát và gửi kèm ảnh chụp chân dung theo một trong hai hình thức sau:

1. Gửi bản cứng kèm ảnh dán trên bản khai về văn phòng Hội Âm nhạc Hà Nội, số 19 Hàng Buồm, Hoàn Kiếm, Hà Nội.

2. Hi viên có thể gửi bản mềm kèm tập tin ảnh chân dung và các tác phẩm vào email: hoiamnhachanoi19@gmail.com và hoiamnhachn@gmail.com

Thời gian hoàn thành ttháng 4 đến cuối tháng 7 năm 2020.

Hội Âm nhạc Hà Nội rất mong các nhạc sĩ hoàn thành đúng thời hạn để Hội có thể cập nhật website và quảng bá các tác phẩm của hội viên trong thời gian tới.

Trân trọng cảm ơn!

CHỦ TỊCH

(đã ký)

Nhạc sĩ Trương Ngọc Ninh

Tải Phiếu khai thông tin Hội viên ở đây.

Phieu thong tin Hoi vien HANHN+Thong bao

 

Hội Âm nhạc Hà Nội thẩm định tác phẩm mới tháng 5/2020

0

Tháng 5 đã về, rực trời hoa phượng đỏ khắp các nẻo đường. Nắng lên xóa tan đi những ngày âm u, giá lạnh, vút cao những giai điệu âm nhạc và ngân vang trong chương trình Giới thiệu Tác phẩm mới của Hội Âm nhạc Hà Nội sẽ được diễn ra vào ngày 15/5/2020.

Để chuẩn bị cho hoạt động này, Hội đồng nghệ thuật đã tổ chức cuộc họp vào sáng ngày 2/5/2020 để thẩm định những tác phẩm mới của các hội viên Hội Âm nhạc Hà Nội.

Đến tham dự gồm có: NS Trương Ngọc Ninh – Chủ tịch Hội Âm nhạc Hà Nội, NS – Bá Môn – PCT Hội, NS Lân Cường – PCT thường trực, NS Cát Vận cùng các NS Hoàng Lân, Vũ Thiết, Thiếu Hoa, Tiến Mạnh, Mai Kiên và bà Tố Hoa – thư ký hội đồng nghệ thuật.

Đây là cuộc họp đầu tiên trong năm 2020, sau thời gian “giãn cách xã hội” để cùng cả nước chung tay phòng, chống dịch Covid-19. Với không khí làm việc nghiêm túc, sôi nổi, Hội đồng Nghệ thuật đã lựa chọn ra những tác phẩm âm nhạc để giới thiệu vào ngày 15/5/2020 tại Hội trường Hội Âm nhạc Hà Nội, số 19 Hàng Buồm, Hà Nội.

Kính mong các nhạc sĩ Hội viên đến tham dự chương trình.

                DANH SÁCH TÁC PHẨM THÁNG 5/2020

STT NỘI DUNG TÁC GIẢ BIỂU DIỄN GHI CHÚ
1 Niềm tin chiến thắng Thùy Dương Thùy Dương + tốp ca MV
2 Bài ca câu thần dược chữa  Corona Tiêu Hà Hải Lê Văn Đạt MP3
3 Xin cảm ơn Đinh Tiến Hậu Thu Hương Mp3
4 Hành khúc những bác sĩ kiên hùng Lân Hùng Minh Quang Mp3
5 Xuân nhớ Hà Nội Nguyễn Thắng Đơn ca nam MP3
6 Gửi biển Thái Hà Đức Tuyên MV
7 Giọt đàn xứ Huế Hồ Trọng Tuấn Vân Khánh MP3
8 Vì sự nghiệp trồng người Phi Thường Đơn ca Mp3
9 Sơn ca trên đảo Trường Sa Đăng Tài Tốp ca thiếu nhi Mp3
10 Gió và thủy triều Trần Nghệ Lê Anh Dũng Mp3
11 Thương nhau ta lại về Hoàng Long Đơn ca Mp3
12 Cao nguyên chiều bên em Văn Tiến Vũ Thắng Lợi MP3
13 Bắc Ninh ngày tôi về Vũ Thiết Tùng Dương Mp3
14 Kẻ tội đồ Bích Việt Bích Việt Mp3

Sau đây là một số hình ảnh của cuộc họp:

 

Cách đặt tên các tác phẩm trong nhạc cổ điển: [2] Số thứ tự bản nhạc

0
Cách đặt tên các tác phẩm trong nhạc cổ điển: [2] Số thứ tự bản nhạc

Một tác phẩm cổ điển thường được gọi tên theo hình thức sau:

(1) Thể loại + (2) Tên tác phẩm (nếu có) + (2) No. (Số thứ tự tiểu phẩm trong tập nhạc) + (3) Giọng của tác phẩm + (4) Số thứ tự của tập nhạc (thường là Op. HOẶC D. HOẶC K. HOẶC S…)


Opus còn được viết tắt là Op., Opus số 50 đơn giản có thể hiểu là tác phẩm số 50. Với hầu hết nhà soạn nhạc, người ta áp dụng Opus để chỉ số thứ tự của tập tác phẩm theo thời gian sáng tác. VD Opus số 10 thường được hoàn thành trước Opus số 35 chẳng hạn. Beethoven có bản violin concerto với số opus 61, có nghĩa đó là tác phẩm số 61 của ông.

Có 1 số trường hợp đặc biệt, như với Mozart thì người ta đánh số bằng ký hiệu K., với Liszt thì là S., với Schubert thì D tương đương với Opus, với Bach thì là Bwv. Bản giao hưởng số 40 giọng Son thứ của Mozart có ký hiệu K.550, vậy đó là tác phẩm thứ 550 của ông.


Ví dụ: Drei Klavierstücke, No. 3, E-flat minor D. 946 của Schubert

– Drei Klavierstücke (tiếng Đức): tập nhạc có tên “3 khúc nhạc cho piano”

– No. 3: Khúc nhạc thứ 3 trong tập nhạc

– E-flat minor: giọng Mi giáng thứ

– D. 946: tập nhạc số 946

Như vậy, đây là khúc piano số 3 trong tập nhạc đánh số 946 của Schubert, khúc nhạc được viết ở giọng Mi giáng thứ.

Hãy cùng thưởng thức khúc nhạc trên qua tiếng đàn của huyền thoại piano người Nga, Richter:

(Nguồn: nhaccodien.info)

 

 

 

 

Nhân chứng lịch sử ngày 30/4/1975

0

 

Nhân chứng lịch sử ngày 30/4/1975
Khách mời: Nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn, Nguyễn Ngọc Thiện, Tôn Thất Lập
MC: Nguyễn Tiến Mạnh

Cách đặt tên các tác phẩm trong nhạc cổ điển: Cơ bản [1]

0

(Biên tập: Quỳnh Anh)

Cách đặt tên cho tác phẩm trong âm nhạc cổ điển thì hoàn toàn khác so với việc đặt tên cho các ca khúc nhạc mới.

Chúng ta dễ dàng nhận thấy tên của các tác phẩm cổ điển (điển hình của các nhà soạn nhạc: Bach, Beethoven, Mozart, Chopin,…) có cấu trúc khác lạ so với những gì chúng ta thường thấy ở các ca khúc mới hiện nay. Đó là những cái tên khá dài với rất nhiều từ lạ, ký hiệu, con số, và sự thật là không phải ai cũng hiểu hết về ý nghĩa của những cái tên này.

Những công chúng mến mộ âm nhạc cổ điển chắc hẳn ngoài việc yêu thích thưởng thức các tác phẩm tuyệt vời này thì cũng sẽ vô cùng tò mò và muốn tìm hiểu nội dung của những cái tên này ra sao. Sau đây sẽ là lời giải thích ý nghĩa cho những cái tên trong âm nhạc cổ điển.

Về cơ bản, một tác phẩm cổ điển thường được đặt tên theo hình thức sau:

Thể loại + Tên tác phẩm (nếu có) + No. (Số thứ tự tác phẩm trong tập tác phẩm) + Giọng của tác phẩm + Opus (số thứ tự của tập tác phẩm)

Ví dụ: Nocturne No. 1 in B-flat minor, Op. 9

Nocturne: Tên thể loại (có thể dịch sang tiếng Việt là Dạ khúc)

No. 1: Số thứ tự của tác phẩm trong tập tác phẩm

B-flat minor: Giọng của tác phẩm, ở đây là giọng Si giáng thứ

Op. 9 (Opus 9): Số thứ tự của tập tác phẩm (ví dụ “tập tác phẩm số 9 của Chopin”)

“Nocturne No.1 In B Flat Minor, Op.9” có nghĩa là “Bản nocturne số 1 giọng Si giáng thứ” trong tập tác phẩm số 9.

Được hiểu rằng đây là tác phẩm thuộc thể loại Dạ khúc, khúc nhạc đầu tiên, viết ở giọng Si giáng thứ, thuộc tập tác phẩm đánh số 9 trong số 74 tập tác phẩm Chopin đã sáng tác.

Chúng ta hãy thưởng thức khúc nhạc êm ái này qua tiếng đàn của nghệ sĩ Arthur Rubinstein:

(còn nữa)

(Nguồn: Thông tin sưu tầm từ nhaccodien.info)

 

 

 

 

 

Một số thể loại âm nhạc cổ điển (P5)

0
Một số thể loại âm nhạc cổ điển (P5)

* ARIA

Aria (tiếng Ý nguyên gốc có nghĩa là “khúc ca” hay “điệu ca”, “điệu nhạc”) là thuật ngữ chỉ một bài ca hoặc độc lập (như “Ah Perfido” của Beethoven và một số aria hòa nhạc của Mozart) hoặc là một phần của một tác phẩm lớn (opera, cantata, oratorio). Aria được thể hiện bằng một giọng solo có hoặc không có phần nhạc đệm và thường thể hiện cảm xúc mãnh liệt. Từ tiếng Ý có thể được diễn dịch như “kiểu” hay “phong cách” và trong thế kỉ 16 từ “aria” được dùng đối với những bản phổ nhạc đơn giản cho thơ ca nhẹ nhàng (chẳng hạn như ‘aria napoletana’). Các aria với nghĩa các giai điệu hoặc các cách phối cho ca khúc được in nhiều vào thế kỉ 16 và cả sang thế kỉ 17 trong những ấn phẩm khí nhạc và cả thanh nhạc.

Aria có một vị trí trung tâm trong opera, cantata và oratorio thời kỳ đầu. Phần lớn các aria opera Venice trước năm 1660 ở nhịp ba hay hỗn hợp giữa nhịp ba và nhịp đôi; nhiều aria có bốn đoạn thơ hoặc nhiều hơn, mặc dù sau năm 1650 hai đoạn thơ trở thành chuẩn mực trong opera. Phần lớn aria có phần nhạc đệm liền mạch (continuo), với các đoạn điệp giữa các đoạn thơ; một số ít aria từ những năm 1640 trở đi có những phần khí nhạc giữa các câu hát nhưng chúng vẫn còn chiếm số ít cho đến khi sang thế kỉ 18. Các aria gần cuối thế kỉ 17 theo hình thức ABB’ (dòng hay nhóm dòng cuối cùng được diễn đạt hai lần với âm nhạc tương tự, chỉ với một điệu chủ ở lần thứ hai), hay theo hình thức ABA (đôi khi là ABA‘), nơi mà dòng hay cặp dòng đầu tiên được nhắc lại ở cuối. Loại này này trở thành aria da capo chuẩn mực (aria có tái hiện), chiếm ưu thế cho đến năm 1680. Ở đầu thế kỉ 18, phần nhạc đệm có thể thay đổi kết cấu hoặc cách phối khí; aria hát liền chỉ trở nên ngày càng hiếm sau những năm 1720.

Đến lúc đó, các aria dài hơn được ưa chuộng. Với các nhà soạn nhạc được xem là những người khởi đầu của phong cách hiện đại thế kỉ 18 (Vinci, Hasse, Pergolesi…), các tỉ lệ trong cấu trúc da capo đã thay đổi. Phần giữa trở nên ngắn hơn và thường tương phản về nhịp và tốc độ ; phần mở rộng tương ứng của phần thứ nhất về sau chuyển sang thay thế da capobằng dal segno, biểu thị sự trở lại không chỉ phần mở đầu mà còn cả vị trí sau đó nữa. Vào những năm 1760 và 1770 việc này tạo lối tới một cách phối hợp gần gũi trong đường nét với chương đầu của các giao hưởng và sonata đương thời, bằng một phần mở đầu kết thúc bằng âm át, một phần giữa như phần phát triển hay tương phản và phần trình bày lại của phần thứ nhất như một bản tóm tắt âm chủ. Những phong cách quan trọng của thời gian này là rondeau (rondo), ABACA, bắt đầu bằng một phần chậm và kết thúc bằng một phần allegro (AB hay ABAB). Đến năm 1780, những aria về sau (nguyên mẫu của cantabile-cabaletta đầu thế kỉ 19) đã được thay thế một cách rộng rãi bằng phong cách một nhịp kiểu Pháp. Các aria trong các vở opera hài được biến đổi về hình thức. Opera thế kỉ 19 tỏ ra giảm bớt số lượng các aria và tăng độ dài của chúng. Aria hình thức sonata tạo đường cho các hình thức nhiều nhịp và từ những năm 1830 có một sự chuyển biến từ phong cách bel canto cũ hơn sang một phong cách kịch tính hơn. Sự phát triển của Verdi minh họa cho sự dịch chuyển sang các cách xây dựng tự do và linh hoạt mà không thể dễ dàng được trích ra khỏi ngữ cảnh của chúng. Trong opera của Puccini các aria cũng có xu hướng trở thành một phần của kết cấu kịch và trong các opera thời kỳ thành thục của Wagner, các phần mở rộng cho giọng solo thường không thể được trích ra mà không cắt xén.

Opera Ý có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hầu hết các thể loại opera đương thời khác, gồm cả opera grand của Pháp và opera Slav, trong đó aria được thừa nhận như là hình thức tự nhiên của việc diễn tả. Tuy nhiên ảnh hưởng của Wagner lớn đến nỗi đến thế kỉ 20 các truyền thống cũ hơn hầu như đã bị loại bỏ. Trong opera Rake’s Progress (Sự hoàn lương của gã ăn chơi đàng điếm, 1951), Stravinsky đã phục hồi hình thức chứ không phải cái căn bản của aria thế kỉ 18; những xu thế gần đây đã hướng tới các hình thức hợp nhất ở mức độ cao của sân khấu nhạc kịch mà từ đó aria thường bị loại trừ.

Vào đầu thế kỉ 17 và thậm chí muộn hơn đến bộ tác phẩm Goldberg Variations của Bach, một “aria” đôi khi đóng vai trò như một bộ các biến tấu khí nhạc và các khúc nhạc gọi là “aria” (thường ở nhịp bourré, 2/2 hoặc 2/4)) phổ biến trong âm nhạc vũ khúc hòa tấu thời Baroque.

* CANTATA (ĐẠI HỢP XƯỚNG)

Cantata là một thể loại thanh nhạc cổ điển với đặc điểm trang trọng hoặc có tính anh hùng, tính trữ tình; gồm một số tiết mục hoàn thiện viết cho hợp xướng, độc xướng và dàn nhạc giao hưởng. Thể loại cantata có sự gần gũi với thể loại oratorio.Tuy nhiên giữa hai thể loại này cũng có những điểm khác biệt, đó là khuôn khổ của cantata không lớn lắm và không diễn tả một câu chuyện kịch, mà chỉ có một số tiết mục dựa trên một đề tài.

Cấu trúc của cantata khá phong phú, có thể gồm nhiều chương hoặc chỉ có một chương, có thể viết cho hợp xướng và dàn nhạc, mà cũng có thể cho độc xướng và hợp xướng lẫn độc xướng. Lời ca trong cantata có thể không có sự phát triển mang tính chủ đề nhất định nhưng cũng có bản được phát triển với sự phối hợp bằng chủ đề rõ ràng.

Vào thế kỉ 16 khi mọi thể loại âm nhạc nghiêm túc đều là thanh nhạc, thuật ngữ cantata không có lý do gì để tồn tại nhưng với sự gia tăng của khí nhạc trong thế kỉ 17 thì các cantata bắt đầu tồn tại dưới tên gọi đó ngay khi nghệ thuật khí nhạc định hình đủ để hiện thân trong các sonata. Từ giữa thế kỉ 17 cho đến cuối thế kỉ 18, một hình thức ưa thích của nhạc thính phòng Ý là cantata cho một hoặc hai giọng hát độc xướng cùng phần đệm bằng harpsichord và có lẽ cùng một ít nhạc cụ độc tấu khác. Ban đầu nó bao gồm một chuyện kể có tính ngâm vịnh hoặc cảnh theo lối hát nói, được tập hợp với nhau bằng một aria còn thô sơ lặp lại ở giữa các đoạn. Những hình mẫu xuất sắc của thể loại này có thể tìm thấy trong âm nhạc nhà thờ của Giacomo Carissimi và các tác phẩm độc xướng bằng tiếng Anh của Henry Purcell (chẳng hạn như Mad Tom và Mad Bess) thể hiện tối đa mức độ có thể tiến hành với hình thức cổ xưa này. Với sự gia tăng của aria Da Capo (một loại aria có tái hiện), cantata trở thành một nhóm hai hoặc ba aria liên kết với nhau bằng đoạn hát nói. Nhiều duet và trio Ý của George Frideric Handel là những ví dụ về một quy mô khá lớn. Latin motet (bài thánh ca ngắn tiếng Latin) của ông, Silete Venti, viết cho soprano độc xướng, thể hiện cách dùng hình thức này trong âm nhạc nhà thờ.

Cantata độc xướng Ý, khi ở quy mô lớn, có xu hướng trở nên không thể phân biệt được với một cảnh trong một vở opera. Cũng theo cách như thế, cantata nhà thờ, độc xướng hoặc hợp xướng, là khó phân biệt được với một oratorio nhỏ hay một phần của một oratorio. Điều này cũng hiển nhiên hơn nữa khi chúng ta khảo sát những cantata nhà thờ tuyệt vời của Johann Sebastian Bach, trong đó có gần 200 tác phẩm hiện còn lại, hay Chandos Anthems của Handel. Trong trường hợp Bach, nhiều cantata lớn trên thực tế được gọi là oratorio và Christmas Oratorio là một tập gồm 6 cantata nhà thờ mà trên thực tế có xu hướng được biểu diễn trong 6 ngày khác nhau, mặc dù cùng nhau định hình trọn vẹn về mặt nghệ thuật như bất cứ oratorio cổ điển nào. Tuy vậy điểm chủ yếu trong các cantata nhà thờ của Bach là chúng tạo thành bộ phận nghi lễ nhà thờ và hơn nữa thành một nghi lễ trong đó tổ chức âm nhạc chặt chẽ hơn nhiều so với ở nhà thờ giáo phái Anh. Nhiều cantata lớn nhất của Bach bắt đầu với một hợp xướng phức tạp, nối tiếp bằng một cặp aria và đoạn hát nói, rồi kết thúc bằng một bài thánh ca giản dị. Điều này thường được chú giải theo một khuôn mẫu là sự không quan tâm của Bach đối với đỉnh cao nghệ thuật trong tác phẩm nói chung. Nhưng không ai còn giữ lại quan điểm này khi nhận ra vị trí mà cantata nhà thờ chiếm giữ trong nghi lễ giáo hội Lutheran. Lời ca được dựa một cách cẩn trọng theo sách Phúc âm hoặc các bài học thường nhật ; ngoại trừ các cantata ngắn, lời thuyết giáo hầu như chắc chắn nằm sau hợp xướng đầu tiên hoặc một trong những aria và cả giáo đoàn tham gia vào hợp xướng kết thúc. Vì vậy sự thống nhất nghi lễ là sự thống nhất của âm nhạc và trong những trường hợp khi mọi chương của cancata được hình thành theo một chương và giai điệu hợp xướng tương tự, sự thống nhất này chưa bao giờ ngang bằng nhau, ngoại trừ các bản mass và motet thế kỉ 16, được xây dựng theo những giọng Gregorian của lễ hội tôn giáo mà tác phẩm được viết cho dịp đó.

Ở thời hiện đại, thuật ngữ cantata hầu như chỉ được áp dụng cho hợp xướng, như để phân biệt với thanh nhạc độc xướng. Có lẽ chỉ có một loại cantata từ thời Bach là có thể được công nhận như một hình thức nghệ thuật và không phải chỉ là một tiêu đề cho những tác phẩm khác không thể phân loại được. Chỉ có thể công nhận như một thể loại nghệ thuật riêng biệt đối với loại cantata đầu thế kỉ 19 trong đó hợp xướng là phương tiện biểu lộ âm nhạc trữ tình hơn và mang tính ca xướng hơn thể loại oratorio, mặc dù tại cùng thời kỳ đó không loại trừ khả năng về đỉnh cao nổi bật trong một hình thức bậc nhẹ là fugue.Glorreiche Augenblick của Ludwig van Beethoven là một tác phẩm “kiếm cơm” xuất sắc trong thể loại này; Jubel Cantatacủa Carl Maria von Weber là hình mẫu đặc trưng và Walpurgisnacht của Felix Mendelsshohn là kinh điển. Symphony Cantata của Mendelsshohn, Lobgesang, là tác phẩm thể loại ghép với một phần ở thể loại oratorio. Trước đó là ba chương giao hưởng, một đề từ được gợi ý công khai từ Giao hưởng số 9 của Beethoven, nhưng sự giống nhau không nguyên xi, khi mà tác phẩm của Beethoven là một giao hưởng trong đó chương thứ tư là một đoạn kết hợp xướng được chủ định độc lập về cơ bản, trong khi đó Symphony Cantata của Mendelsshohn là một cantata với ba prelude giao hưởng. Năng lực trữ tình đầy đủ của dàn dây và các bài hát hợp xướng cuối cùng cũng được Johannes Brahms nhận ra trong Rinaldo của ông, viết theo lời thơ mà Goethe đã viết cùng thời gian ông viết phần Walpurgisnacht trong Faust. Mục đích tác phẩm của Brahms (thử nghiệm duy nhất của ông ở thể loại này) đã bị các nhà phê bình bỏ lỡ, những người mong đợi ở một sáng tác nhiều chương như thế các đặc tính của một tác phẩm hợp xướng trau chuốt mà với thể loại này nó không có mối liên hệ. Chắc chắn là Brahms đã nói lời cuối cùng về đề tài này ; và những kiểu cantata còn lại (bắt đầu với Meeres-stille của Beethoven và bao gồm hầu hết các tác phẩm hợp xướng của Brahms cùng nhiều tác phẩm hợp xướng nhỏ tiếng Anh) chỉ đơn thuần là nhiều cách thức khác nhau để viết nhạc hợp xướng cho một bài thơ mà chỉ vì quá dài để chỉ có một chương.

* SYMPHONY (GIAO HƯỞNG)

Giao hưởng là một thể loại tác phẩm quy mô dành cho dàn nhạc (hoặc dàn nhạc với giọng hát) và thường có nhiều hơn một chương. Thuật ngữ “giao hưởng” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “cùng nhau phát ra âm thanh.” Ý nghĩa này của thuật ngữ “giao hưởng” đã trải qua nhiều thay đổi trong lịch sử âm nhạc. Ý nghĩa của nó theo cách hiểu của chúng ta ngày nay đã được định hình từ nền âm nhạc Đức và Áo trong suốt đầu thế kỷ 18.

Thuật ngữ giao hưởng xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1597 với vai trò là tiêu đề các tác phẩm của nhà soạn nhạc thành Venice Giovanni Gabrieli, đó là những tác phẩm nhạc lễ cho giọng hát và nhạc cụ, có tên gọi “Sacrae symphoniae”. Khi đấy, từ “symphoniae” đã được dùng để chỉ “sự cùng nhau diễn xướng” của các giọng hát và nhạc cụ. Tuy nhiên, việc Adriano Banchieri cho ra mắt một bản Giao hưởng nhạc cụ mà không có giọng hát vào năm 1607 đã vạch ra một xu hướng mới quan trọng trong lịch sử giao hưởng. Năm 1619, nhà soạn nhạc và lý thuyết âm nhạc người Đức Michael Praetorius đã viết trong tập tiểu luận của ông về các hình thức âm nhạc đương thời (Syntagma musicum, Vol. III) rằng, một bản giao hưởng là “một tác phẩm hòa tấu chỉ của các nhạc cụ mà không có bè giọng hát – loại tác phẩm này được những người Ý khởi xướng.” Từ giao hưởng cũng được áp dụng cho phần mở đầu bằng nhạc cụ hoặc phần ngưng nghỉ trung gian (interlude) trong các hình thức âm nhạc như cantata, opera và oratorio. Một ví dụ đáng chú ý là “Giao hưởng Đồng quê” trong tác phẩm Messiah (1742) của George Frideric Handel.

– Italy

Là một phần mở đầu bằng nhạc cụ, sinfonia (tên tiếng Ý của symphony) đã trở thành một phần quan trọng của nền opera Ý thế kỷ 17, chẳng hạn như “sinfonia avanti l’opera” trong các tác phẩm của Alessandro Scarlatti. Vào khoảng năm 1700, những overture opera được gọi là các sinfonia này đã có hình thức cấu trúc ba phần hoặc ba chương. Chương đầu nhanh, chương thứ hai chậm và chương thứ ba có tính nhạc nhảy – thường là một minuet.

Không chỉ được liên hệ một cách hữu cơ với các opera, các overture này cũng được trình diễn như các tác phẩm hòa nhạc và các nhà soạn nhạc Ý như Tomaso Albinoni, Giovanni Battista Sammartini và Antonio Vivaldi đã bắt đầu viết những sinfonia độc lập cũng theo hình thức nhanh-chậm-nhanh. Cấu trúc chương thứ nhất của của kiểu giao hưởng này đã sớm sử dụng hình thức sonata, và những tiền thân khác nhau của hình thức sonata hoàn chỉnh sau này cũng được định hình trong sự phát triển của thể loại giao hưởng.

Một ảnh hưởng quan trọng khác đối với nền giao hưởng Ý là intermezzo, một hình thức âm nhạc được phát triển ở Naples. Các giai điệu trong các intermezzo bao gồm sự kết hợp của các motif ngắn gọn, rõ ràng, được đệm bởi các phép hòa thanh đơn giản, trái ngược với những giai điệu trau chuốt và phép hòa thanh phức tạp thường thấy trong âm nhạc trước đó. Sự phát triển này đem lại cho các nhà soạn nhạc những “chất liệu nguyên sơ” – những chủ đề  để họ có thể tái kết hợp, tái hòa thanh và phát triển chúng trong hình thức sonata.

– ĐỨC VÀ ÁO

Đến năm 1740, giao hưởng đã trở thành thể loại trung tâm của âm nhạc cho dàn nhạc. Những trung tâm lớn cho thể loại này là các thành phố Mannheim và Berlin của Đức, cùng với thủ đô Vienna của Áo. Nhà soạn nhạc người Bohemia Johann Stamitz đã mang lại danh tiếng quốc tế cho dàn nhạc ở Mannheim khi để họ trình diễn các giao hưởng của ông. Stamitz đã là người đầu tiên thêm chương thứ tư vào một bản giao hưởng, đó là một chương kết nhanh, nối tiếp chương minuet. Các chủ đề hai trong các chương sonata của ông cũng thường bộc lộ tính chất tương phản rõ rệt.

Ở Berlin, các nhà soạn nhạc Johann Gottlieb Graun và C.P.E. Bach (con trai J.S. Bach) cũng đã viết những giao ba chương với những tương phản chủ đề rõ rệt và nhấn mạnh sự phát triển cũng như sự biểu lộ cảm xúc.

Các giao hưởng bốn chương đã thống trị ở thành Vienna, với chương đầu được quan tâm một cách đặc biệt. Các nhà soạn nhạc ở đây sử dụng nhiều hơn các nhạc cụ hơi và quan tâm đặc biệt tới sự gắn kết giai điệu; chẳng hạn, phần chuyển tiếp giữa các chủ đề có thể thể được cấu thành từ các đoạn ngắn của chủ đề chính. Trong số các nhà soạn nhạc thành Vienna khi ấy có Georg Matthias Monn và Georg Christoph Wagenseil. Một người con trai khác của J.S. Bach là J.C. Bach cũng có tầm ảnh hưởng lớn, ông vốn học ở Ý là đến làm việc ở London, các giao hưởng của ông mang đầy sự sáng sủa của những giai điệu Ý.

– HAYDN VÀ MOZART: GIAO HƯỞNG CỔ ĐIỂN

Vienna là nơi mà nền giao hưởng thế kỷ 18 vươn đến đỉnh cao. Đó là thời điểm cuối thế kỷ 18, với các tuyệt tác của Joseph Haydn, Wolfgang Amadeus Mozart và Ludwig van Beethoven. Haydn, nhà giao hưởng Vienna vĩ đại đầu tiên, đã không ngừng thử nghiệm với những kỹ thuật và đạo cụ mới trong sáng tác cho dàn nhạc. Ông đã sáng tác 104 bản giao hưởng và quá trình đó đã kéo dài và mở rộng hình thức giao hưởng. Những phần mở đầu chậm thường đi trước trong các chương một, các chương sonata thường tránh sự tương phản chủ đề; các chương kết, hình thức sonata hoặc rondo, có sức sống và sức nặng chưa hề thấy trong các sáng tác của những nhà soạn nhạc trước đó. Haydn thường sử dụng phép đối âm, gắn kết nó vào trong phong cách giao hưởng. Những đặc trưng tiêu biểu này thậm chí vẫn có mặt cả trong những giao hưởng khác thường như Giao hưởng “Tiễn biệt” (1772) – trong đó các nhạc công dần dần dời khỏi sân khấu cho đến những phút cuối cùng của tác phẩm.

Mặc dù Haydn thường được gọi là cha đẻ của giao hưởng, nhưng thể loại này thực ra đã có sự khởi đầu ở Ý và Đức. Haydn đã phát triển thể loại này dưới dạng bốn chương, đem lại cho nó cái được gọi là hình thức cổ điển, đưa nó đến một đỉnh cao mới của âm nhạc. Haydn và người bạn thiên tài của ông – Wolfgang Amadeus Mozart đã tạo ảnh hưởng lẫn nhau trong kỹ thuật giao hưởng. Mozart, một trong những bậc thầy giao hưởng vĩ đại nhất của mọi thời đại, đã sáng tác 41 bản giao hưởng với tính chất sáng tạo kỳ diệu. Trong những giao hưởng nổi tiếng nhất của ông có Giao hưởng Linz (1783), Prague (1786), Haffner (1782); và ba bản giao hưởng cuối cùng: Mi giáng trưởng, Son thứ và Jupiter (1788), đưa thể loại giao hưởng vĩnh viễn trở thành một thể loại lớn với tính chất biểu hiện sâu sắc.

– BEETHOVEN

Trong chín bản giao hưởng của mình, Ludwig van Beethoven đã đưa ra khái niệm về các mối quan hệ chủ đề giữa các chương. Trước thời Beethoven, các chủ đề trong mỗi chương là độc lập với nhau. Beethoven đã mở rộng một cách lớn lao và sâu sắc những khả năng biểu hiện của thể loại giao hưởng và đem lại cho nó khả năng khắc họa những cảm xúc phong phú và mãnh liệt. Khả năng biểu hiện lớn này đã có mặt ở mức độ đáng kể trong hai bản giao hưởng đầu tiên của ông, và nó đã trở nên đặc biệt nổi bật trong Giao hưởng số 3 giọng Mi giáng trưởng (1805), thường được biết đến với cái tên “Eroica” (“Anh hùng” – đã từng được dự định đề tặng Napoleon). Tuyệt tác này có một chương đầu cô đọng, tràn đầy sức mạnh sáng tạo, một chương hai sâu sắc dưới dạng một hành khúc tang lễ, một chương ba scherzo sôi nổi, và một chương kết dưới dạng các biến tấu trên một chủ đề. Nếu như trước đó, chương ba thường là một minuet, thì trong các giao hưởng của Beethoven, chương ba trở thành một khúc scherzo sống động.

Trong Giao hưởng số 5 giọng Đô thứ (1808) của mình, Beethoven đã đưa vào một motif nhịp điệu và giai điệu 4-nốt, nó có vai trò thống nhất các phần tương phản của tác phẩm. Giao hưởng số 6 giọng Fa trưởng (1808), được biết đến với cái tên “Đồng quê”, đã mô tả những cảm xúc nảy sinh khi nhà soạn nhạc hồi tưởng lại những cảnh thôn dã. Nó sử dụng một số kỹ thuật của âm nhạc chương trình, kể một câu chuyện đơn giản và mô phỏng những âm thanh như tiếng chim và tiếng sấm sét. Giao hưởng số 9 giọng Rê thứ (1824), được coi như một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của Beethoven, kết thúc bằng một chương hợp xướng dựa trên bài thơ  “An die Freude” (Hướng tới niềm vui) của nhà thơ Đức Friedrich von Schiller.

– THẾ KỶ 19

Sự xuất hiện chủ nghĩa Lãng mạn trong âm nhạc mang lại hai xu hướng đối lập nhau trong sáng tác giao hưởng: xu hướng thứ nhất là sự gắn kết vào giao hưởng những yếu tố của âm nhạc chương trình, và xu hướng thứ hai là sự cô đọng các ý tưởng của hình thức cổ điển, với những giai điệu và hòa âm điển hình của thế kỷ 19. Những minh họa nổi tiếng cho xu hướng thứ nhất là nhà soạn nhạc Pháp Hertor Berlioz và nhà soạn nhạc Hungary Franz Liszt. Những giao hưởng của họ dựa trên những ý tưởng văn học (hoặc phi âm nhạc) nhất định, chúng được gọi là các thơ giao hưởng. Yếu tố giai điệu lặp đi lặp lại trong Giao hưởng Ảo tưởng (1830) của Berlioz là một thí dụ, nó diễn tả người phụ nữ đã ám ảnh những giấc mơ của nhà soạn nhạc. Toàn bộ bản giao hưởng diễn tả sự say đắm đến cuồng dại của nhà soạn nhạc đối với người phụ nữ này.

Trái lại, nhà soạn nhạc người Áo Franz Schubert, về cơ bản đã sử dụng lối tiếp cận hình thức cổ điển trong sáng tác giao hưởng, tuy nhiên, các giai điệu và hòa âm của ông mang tính chất lãng mạn tuyệt hảo. Những giao hưởng nổi tiếng nhất của ông là Giao hưởng “Bỏ dở” (1822) và Giao hưởng Lớn (1828). Các giao hưởng của những nhà soạn nhạc Đức Felix Mendelssohn và Robert Schumann diễn tả đặc trưng hòa âm phong phú của chủ nghĩa lãng mạn. Những giao hưởng nổi tiếng nhất của Mendelssohn là Giao hưởng Scotland (1842), Giao hưởng Ý (1833), và Giao hưởng “Cải cách” (1841), chúng hơi chứa đựng các yếu tố của âm nhạc chương trình thông qua ý nghĩa của các tiêu đề. Các giao hưởng nổi tiếng của Schumann, bao gồm “Mùa xuân” (1841) và “Sông Rhein” (1850) yếu về cấu trúc nhưng lại giàu giai điệu và nhạc tố lãng mạn.

Thành công nhất trong sự kết hợp hình thức cổ điển và phong cách lãng mạn là bốn bản giao hưởng của Johannes Brahms. Những giao hưởng này vẫn giữ hình thức cổ điển trong cấu trúc rất chặt chẽ của chúng, nhưng lại mang tính chất sâu sắc, triết lý trong sự biểu hiện cảm xúc lãng mạn.

Nhà soạn nhạc Nga Peter Tchaikovsky sáng tác sáu bản giao hưởng, với tinh thần là âm nhạc chương trình, chúng gắn kết những cảm xúc mãnh liệt với những chất liệu âm nhạc dân gian Nga, và đặc biệt là trong ba giao hưởng cuối cùng có một sự phát triển âm nhạc sâu sắc.

Các nhà soạn nhạc Áo Anton Bruckner và Gustav Mahler chịu ảnh hưởng lớn của nhà soạn nhạc kịch opera Richard Wagner. Chín giao hưởng của Bruckner khai thác những hiệu quả dàn nhạc lớn và đạt được tính thống nhất trong sự tranh đua giữa các mẫu hình nhịp điệu và giai điệu. Mahler đã mở rộng một cách đặc biệt độ dài của giao hưởng và thường xuyên thay thế những hình thức của nó bằng những đoạn thanh nhạc. Mahler đã nhấn mạnh màu sắc, hay âm sắc của những nhạc cụ riêng lẻ và ông đã thử nghiệm kết thúc một bản giao hưởng bằng một âm điệu khác với âm điệu mở đầu. Trước đó, việc mở đầu và kết thúc một bản giao hưởng bằng cùng một âm điệu giúp nó đạt được sự thống nhất hoàn chỉnh. Mahler đã mong ước rằng các giao hưởng của ông “chứa đựng thế giới”, và ông đã gắn kết các ý tưởng tôn giáo và triết học về những khát vọng của con người và sự đấu tranh của loài người chống lại định mệnh. Nhà soạn nhạc người Czech Antonin Dvorak nổi tiếng với tài năng sử dụng các giai điệu dân gian, như được thể hiện qua bản giao hưởng có tiêu đề “Từ Thế giới Mới” (1893) của ông.

Các nhà soạn nhạc Pháp như Vincent d’Indy và Camille Saint-Saens, các nhà soạn nhạc Nga như Alexander Borodin và Nikolai Rimsky-Korsakov cũng viết nhiều bản giao hưởng nổi tiếng. Giao hưởng Rê thứ của nhà soạn nhạc Pháp-Bỉ César Franck cũng là một ví dụ cho xu hướng “cấu trúc hình trụ” của thế kỷ 19, đó là xu hướng gắn kết các chương khác nhau bằng sự lặp đi lặp lại các chủ đề và motif.

– THẾ KỶ 20

Trong suốt thế kỷ 20, một số các nhà soạn nhạc như Charles Ives (người Mỹ) và Carl Nielsen (người Đan Mạch) đã bám sát hình thức giao hưởng như những phương thức sáng tạo mang tính cá nhân cao. Cả hai người đều đã thử nghiệm với những phép đa âm và nhiều kiểu sáng tác hiện đại khác. Nhà soạn nhạc Phần Lan Jean Sibelius đã đem lại sinh khí cho giao hưởng với hướng đi ngược lại với Mahler. Sibelius đã cô đọng một cách chặt chẽ các chất liệu chủ đề và các quá trình phát triển. Ông đã từng chuyển từ cấu trúc 4 chương truyền thống sang cấu trúc ba chương trong Giao hưởng số 5 (1919) của mình, và cuối cùng là chuyển về một chương trong Giao hưởng số 7 (1924). Trong chín bản giao hưởng của mình, nhà soạn nhạc Anh Ralph Vaughan Williams đã tiếp tục truyền thống của Dvorak trong việc đi theo phong cách dân tộc đặc trưng, rút ra từ âm nhạc dân gian, đặc biệt là trong Giao hưởng số 3 – được gọi là “Đồng quê” (1921) và Giao hưởng số 5 (1943).

Những nhà soạn nhạc khác, đi theo các ý tưởng của chủ nghĩa tân cổ điển, đã tránh sự biểu hiện cảm xúc của chủ nghĩa lãng mạn và sửa đổi hình thức giao hưởng để đưa vào đó những xu hướng hòa âm, nhịp điệu và kết cấu của thế kỷ 20. Nhà soạn nhạc Nga Sergey Prokofiev đã viết Giao hưởng số 1 của ông (1916-1917), được gọi là Giao hưởng “Cổ điển” theo phong cách của Haydn. Những ví dụ khác của chủ nghĩa tân cổ điển được tìm thấy trong các giao hưởng của nhà soạn nhạc gốc Nga Igor Stravinsky và những nhà soạn nhạc Mỹ như Aaron Copland, Roy Harris, Walter Piston và Roger Sessions. Nhà soạn nhạc Áo Anton von Webern, với kỹ thuật của hệ 12 âm, đã sáng tác một bản giao hưởng sơ lược, có thể được trình diễn trong 11 phút. Giống như “Kammersymphonie” (“Giao hưởng Thính phòng”, 1906) của người đồng hương Arnold Schoenberg, nó diễn tả xu hướng cô đọng của thế kỷ 20 cũng như tính tiết kiệm trong hình thức và chất liệu.

Các giao hưởng của nhà soạn nhạc Nga Sergey Rachmaninov là lãng mạn và cổ điển về hình thức. Những tác phẩm có giá trị đặc biệt thuộc về một nhà soạn nhạc Nga khác là Dmitri Shostakovich, các giao hưởng của ông thường đồ sộ về quy mô và đôi khi mang tính chất chương trình. Họ đã nối tiếp truyền thống của Mahler khi đem lại cho giao hưởng sử biểu hiện nội tâm đầy xáo động của chính bản thân nhà soạn nhạc.

Trong giai đoạn sau Thế Chiến II, nhiều nhà soạn nhạc tiếp tục coi giao hưởng như một phương tiện cho những tuyên ngôn quan trọng nhất của họ. Bốn giao hưởng của nhà soạn nhạc Anh Sir Michael Tippett phản ánh từng thời kỳ khác nhau trong sự phát triển phong cách của ông, trong khi đó, Giao hưởng Turangalila (1948) của Olivier Messiaen (Pháp) là một tổ khúc lớn 10 chương xoay quanh một vài chủ đề trung tâm.

Những người Mỹ viết giao hưởng vào cuối thế kỷ 20 và đầu 21 bao gồm Philip Glass, John Coregliano và Eileen Taaffe Zwillich.  Ở châu Âu có Sir Peter Maxwell Davies (Anh); Arvo Pärt (Estonia); Einojuhani Rautavaara (Phần Lan); Hans Werner Henze (Đức); cùng các nhà soạn nhạc Ba Lan Henryk Górecki, Witold Lutosławski, và Andrzej Panufnik.

(Nguồn: nhaccodien.org)

Một số thể loại âm nhạc cổ điển (P4)

0
Một số thể loại âm nhạc cổ điển (P4)

Một số thể loại âm nhạc cổ điển (P4)

* ÂM NHẠC CHƯƠNG TRÌNH

Âm nhạc chương trình là âm nhạc mô tả một chủ đề ngoài âm nhạc, chẳng hạn một câu chuyện, một đối tượng hay một quang cảnh, bằng cách sử dụng những hiệu quả của âm nhạc. Những nỗ lực sử dụng âm nhạc vào mục đích mô tả có lẽ cũng xưa như chính âm nhạc vậy. Câu hỏi liệu rằng chỉ riêng âm nhạc có khả năng mô tả bất cứ chủ đề nào hay không là một câu hỏi cũ và thật sự chưa bao giờ có câu trả lời. Người ta nghi ngờ rằng liệu thính giả có nhận ra cái gì đang được miêu tả bằng âm nhạc không nếu không có sự trợ giúp của các tiêu đề, các phần tóm lược hay các chú thích chương trình, các trích dẫn văn học hay các trích dẫn từ những giai điệu nổi tiếng có mối liên hệ đặc biệt, chẳng hạn như những hành khúc quân đội, thánh ca, tình ca truyền thống, bài hát đi săn hay bài ca ái quốc…

Những mô phỏng âm thanh thực tế hiển nhiên, chẳng hạn như hiệu ứng tiếng sấm trên trống định âm hay âm thanh gần giống tiếng chim từ flute, có thể thực hiện được và đã được các nhà soạn nhạc sử dụng từ nhiều thế kỉ. Người nghe có thể nhận ra mà không cần phải được cắt nghĩa đối với tác phẩm cho đàn phím La poule (Con gà mái, 1706) của nhà soạn nhạc Pháp Jean Philippe Rameau. Nghệ sĩ violin bậc thầy Nicolo Paganini có thể tái tạo trên cây đàn của mình những âm thanh mà người nghe ngay lập tức nhận ra là âm thanh của một sân nuôi gà vịt hay tiếng chuông nhà thờ. Tuy vậy, ngoài những khả năng thuộc về chữ nghĩa hay mang tính biểu diễn để thu hút sự chú ý của việc mô tả bằng âm nhạc, yếu tố tưởng tượng là cần thiết đối với thính giả cho dù nhà soạn nhạc đã đưa ra thêm những giảng giải bên cạnh âm nhạc. Trong một vài trường hợp, chẳng hạn như chủ đề được gọi là “Định mệnh” mở đầu bản giao hưởng số 5 của nhà soạn nhạc người Đức Ludwig van Beethoven, công chúng đã được cung cấp ý nghĩa của âm nhạc mà nhà soạn nhạc đã không thông báo, ít nhất là bằng từ ngữ.

Những tác phẩm trước thời kỳ Lãng mạn

Những nhà soạn nhạc viết cho đàn phím và đàn dây thời kỳ đầu thường sáng tác những tác phẩm mang tính miêu tả, chẳng hạn như ở thế kỷ 16 nhà soạn nhạc người Anh William Byrd đã miêu tả lại một trận đánh trong tác phẩm Mr. Byrd’s Battell viết cho đàn phím. Những miêu tả như vậy được tiếp tục sáng tác trong thế kỷ 17 và 18. Một số tác phẩm tiêu biểu là Musical Representations of Various Biblical Stories, một bộ 6 sonata cho harpsichord của nhà soạn nhạc kiêm nghệ sĩ organ Đức Johann Kuhnau và The Four Seasons, một bộ 4 concerto grosso của nhà soạn nhạc Ý Antonio Vivaldi.

Trong thời kỳ Cổ điển (khoảng 1750 – 1820) mục tiêu thẩm mỹ của âm nhạc không khuyến khích việc miêu tả những chủ đề ngoài âm nhạc; thay vào đó là tập trung vào việc phối hợp những yếu tố âm nhạc theo quy luật âm nhạc thuần túy. Nếu các tác phẩm khí nhạc của thời kỳ này chứa đựng sự miêu tả thì các yếu tố ngoài âm nhạc thường được làm cho phù hợp trong phạm vi một sự phối hợp các mối liên hệ bằng âm nhạc thuần túy. Một ví dụ cho cách tiếp cận này là bản Giao hưởng “Đồng quê” (1808) của Beethoven. Âm nhạc chương trình thực sự được tiếp tục vào cuối  thế kỷ 19, khi những nhà soạn nhạc để cho chương trình quyết định hình thức toàn thể của một tác phẩm cũng như những mối liên hệ nội tại của nó.

Thế kỷ 19

Đầu thế kỷ 19, nền âm nhạc chịu ảnh hưởng lớn lao từ một trào lưu văn học được biết đến dưới cái tên Chủ nghĩa lãng mạn. Nhà soạn nhạc Pháp Hector Berlioz và nhà soạn nhạc Đức Franz Liszt là những người dẫn đầu trong việc phát triển âm nhạc chương trình, vì khi đó nó bắt đầu được biết đến. Họ đã sáng tác những tác phẩm âm nhạc dựa trên hoặc lấy cảm hứng từ những đề tài văn học, hội họa và những đề tài khác. Chẳng hạn như trong Symphonie fantastique (Giao hưởng Ảo tưởng, 1830), Berlioz đã lặp lại một giai điệu để diễn tả sự hiện diện của một người phụ nữ ám ảnh trong giấc mơ của người nghệ sĩ. Trong những tác phẩm hay nhất của Berlioz, một số được lấy đề tài từ tác phẩm của William Shakespeare và Virgil. Sự ngưỡng mộ nhân vật lãng mạn phổ biến trong thời kỳ này tạo cảm hứng cho các tác phẩm giao hưởng mang đầy bầu không khí. Như Berlioz với bản giao hưởng Harold in Italy (1834) được dựa trên anh hùng ca của nhà thơ người Anh George Gordon, Lord Byron; Franz Liszt với Faust Symphony (1857) và Dante Symphony (1857) cũng dựa trên những tác phẩm văn chương lớn. Trong những bản giao hưởng trên cũng như trong các tác phẩm như Les préludes (1854) mà Liszt đã nghĩ ra thuật ngữ thơ giao hưởng (symphonic poem), Liszt đã sử dụng chủ đề quán xuyến, các tiết nhạc dùng giai điệu đặc biệt để định dạng những nhân vật, những hành động hay biểu tượng, một sự cách tân được con rể ông là nhà soạn nhạc Richard Wagner phát triển trong các tác phẩm nhạc kịch của mình.

Trong hành trình thế kỷ 19, sự nổi lên của chủ nghĩa dân tộc được phản ánh trong các tác phẩm như Má vlast (Tổ quốc tôi, 1874-1879), một liên khúc thơ giao hưởng miêu tả các khía cạnh của đất nước quê hương tác giả – Bedřich Smetana vàFinlandia (1900), một bản thơ giao hưởng tha thiết của Jean Sibelius ngợi ca đất nước Phần Lan của ông. Âm nhạc chương trình có lẽ đạt tới hình thức phức tạp nhất trong những tác phẩm thơ giao hưởng của nhà soạn nhạc người Đức Richard Strauss, người đã dùng mọi tài nguyên của dàn nhạc hiện đại thời bấy giờ để diễn tả những nhân vật và sự kiện lãng mạn, như trong tác phẩm Don Quixote (1898) dựa theo tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Tây Ban Nha Miguel de Cervantes Saavedra. Trong tác phẩm này, ông dùng cello solo để miêu tả nhân vật Don Quixote và viola solo để miêu tả người hầu cận trung thành của Don Quixote, trong khi toàn bộ dàn nhạc được dùng để bình luận, minh họa cho những cuộc phiêu lưu của họ.

Những hướng phát triển khác

Những kiểu âm nhạc chương trình khác có thể kể đến như La danse macabre (1874) (Vũ điệu ma quỷ) – một bài tập kỳ cục của nhà soạn nhạc Pháp Camille Saint-Saëns; Những biến tấu Enigma (1899) – những bức chân dung bằng âm nhạc mô tả một nhóm bạn của nhà soạn nhạc Anh Edward Elgar; Prélude à l’après-midi d’un faune (Prelude Buổi chiều của thần điền dã, 1894)  – một gợi tả bằng âm nhạc của Claude Debussy theo thi phẩm cùng tên của nhà thơ Pháp Stéphane Mallarmé và Music for a Great City (1964) – một tác phẩm cho dàn nhạc miêu tả cuộc sống ở thành phố New York của nhà soạn nhạc Mỹ Aaron Copland.

Âm nhạc chương trình cũng đã được sử dụng để tuyên truyền chính trị, chẳng hạn như trong bản giao hưởng số 3 (May Day, 1931)củanhà soạn nhạc Nga Dmitri Shostakovich, một tác phẩm biểu dương ngày quốc tế lao động.

Một số nhà soạn nhạc gần đây hơn, đặc biệt là những người sử dụng hệ thống 12 âm, đã có xu hướng nhấn mạnh tính trừu tượng của âm nhạc. Và nếu họ sử dụng các tiêu đề thì đều chọn tiêu đề vì nhưng ý nghĩa chung chung hơn là vì những ý nghĩa cụ thể, như trong tác phẩm Differences (1959) của nhà soạn nhạc Ý Luciano Berio và Moments (1965) của nhà soạn nhạc Đức Karlheinz Stockhausen. Âm nhạc được tạo ra từ nhạc cụ điện từ hay thiết bị điện tử có thể được coi là đi ngược lại với những nguyên tắc truyền thống trong việc mô tả bằng âm nhạc, vì nó hoạt động bằng những âm thanh từ nhiều nguồn ngoài âm nhạc có thể nhận ra được và bằng cách hòa lẫn, pha trộn hay bóp méo âm để lấy ra cái cụ thể trong lĩnh vực của cái trừu tượng. Nhiều tác phẩm âm nhạc kiểu này đã được dùng để để mô tả những khía cạnh kỳ lạ và khôi hài của cuộc sống, như trong tác phẩm Silver Apples of the Moon (1967) của Morton Subotnick. Nhà soạn nhạc Mỹ John Adams đã đưa những yếu tố chương trình vào tác phẩm của mình như tác phẩm viết cho dàn nhạc My Father Knew Charles Ives (2003) mà ông mô tả như “một tác phẩm tự truyện bằng âm nhạc”.

* NHẠC THÍNH PHÒNG (CHAMBER MUSIC)

Nhạc thính phòng là nhạc viết cho nhạc cụ hòa tấu, thường dao động từ 2 đến 10 người chơi, mỗi người chơi một bè và mọi bè đều có tầm quan trọng ngang bằng. Nhạc thính phòng từ khoảng năm 1750 phần lớn dành cho tứ tấu đàn dây (2 violin, viola và cello), mặc dù các ngũ tấu đàn dây cũng như các tam tấu và các ngũ tấu cho 4 đàn dây cùng với 1 piano hay 1 nhạc cụ hơi cũng đã phổ biến. Gọi là nhạc thính phòng là bởi vì ban đầu nó ngụ ý là nhạc dành cho biểu diễn riêng, điển hình là trong một sảnh nhỏ hoặc các phòng riêng của cá nhân. Các buổi hòa nhạc các tác phẩm thính phòng trước công chúng chỉ bắt đầu vào thế kỉ 19.

Nhạc thế tục ở thời Trung cổ và Phục hưng (khoảng năm 1450 đến khoảng năm 1600) được soạn với đặc thù dành cho hòa tấu khí nhạc và thanh nhạc. Hầu hết sáng tác là các tác phẩm thanh nhạc có 3, 4 và 5 bè. Những nhóm khí nhạc chơi loại nhạc thính phòng này một cách đơn giản, sử dụng bất cứ loại nhạc cụ nào họ muốn hay sẵn có vào thời kỳ đó.

Vào thời Baroque (khoảng năm 1600 đến khoảng năm 1750), cấu trúc âm nhạc có mặt khắp nơi là cấu trúc có những tuyến giai điệu bè cao được bè giai điệu trầm phụ trợ – basso continuo – do cello hay bassoon, với những hòa âm do lute, harpsichord hoặc organ lấp đầy. Hai thể loại khí nhạc trở nên quan trọng trong thời kỳ này là sonata da chiesa hay sonata nhà thờ và sonata da camera hay sonata thính phòng. Mặc dù sonata da chiesa không thể được xem là nhạc thính phòng theo nghĩa chặt chẽ nhất của nó, nhưng từ khi nó được dự tính để biểu diễn trước công chúng, từ khoảng năm 1700, sự khác biệt giữa sonata da chiesa và sonata da camera đã bị lu mờ vì nhiều tác phẩm của mỗi thể loại đó đều được chơi trước công chúng lẫn biểu diễn riêng tư. Những thể loại nhạc thính phòng cơ bản là trio sonata – các bản sonata da chiesa hay da camera được viết cho hai nhạc cụ chơi giai điệu (thường do violin, flute hay oboe đảm nhiệm) và bè continuo -và solo sonata, thường cho violin và bè continuo. Tuy nhiên nếu muốn, các trio sonata cũng có thể được chơi bằng các nhóm hòa tấu lớn hơn gồm 6 hay 8 nhạc cụ. Thêm vào đó, người ta cũng viết các cantata thính phòng dành cho giọng hát solo cùng bè continuo cũng như cho duet hai giọng hát cùng bè continuo mà thực tế đã tạo hình mẫu cho trio sonata.

Những nhà soạn nhạc nổi bật nhất của thể loại trio và solo sonata trong thế kỉ 17 là nhà soạn nhạc Ý Arcangelo Corelli, người mà các tác phẩm ảnh hưởng đến nhạc thính phòng của nhà soạn nhạc Anh Henry Purcell và về sau là nhạc thính phòng của nhà soạn nhạc Pháp François Couperin, nhà soạn nhạc Đức – Anh George Frideric Handel và nhà soạn nhạc Đức Johann Sebastian Bach.

Trong kỷ nguyên Cổ điển (khoảng năm 1750 đến khoảng năm 1820), nhà soạn nhạc Áo Josept Haydn đã phát triển nhạc thính phòng thành một phong cách khác biệt với nhạc hòa tấu khác. Quan trọng ngang với những tiền thân của phong cách mới là các thể loại nhạc nhẹ Vienna, chẳng hạn như divertimento và serenade. Được các nhóm đàn dây và nhạc cụ hơi chơi ngoài trời, những sáng tác này loại đi bè continuo, sử dụng những nhạc cụ giọng trung để điền đầy hòa âm. Haydn đã thiết lập tứ tấu đàn dây thành thể loại hòa tấu thính phòng thông dụng nhất. Những tứ tấu của ông thường được viết theo cấu trúc sonata 4 chương (1 chương nhanh, 1 chương chậm, 1 minuet và 1 chương nhanh khác), một hình thức chiếm ưu thế trong kỉ nguyên Cổ điển. Nhạc thính phòng trong thời Cổ điển, như Haydn và đồng hương của ông là Mozart đã phát triển, cũng đã được phân biệt bằng cách viết tinh tế, tác động phức tạp và gần gũi giữa 4 nhạc cụ. Nhà soạn nhạc Đức Ludwig van Beethoven đã mở rộng tầm cỡ của các tứ tấu đàn dây trong khi vẫn duy trì đặc tính riêng của nó.

Nhạc thính phòng trong kỉ nguyên Lãng mạn (khoảng năm 1820 đến khoảng năm 1900) có xu hướng tuân theo các truyền thống cổ điển. Các nhà soạn nhạc thường sử dụng cấu trúc sonata 4 chương và tứ tấu đàn dây tiếp tục là một lối kết hợp nhạc cụ được ưa thích. Khi các nhà soạn nhạc tìm cách thể hiện cảm xúc mãnh liệt trong tác phẩm của mình, các tác phẩm đề cao piano, chẳng hạn như Trout Quintet (1819) của nhà soạn nhạc Áo Franz Schubert và Ngũ tấu Piano giọng Pha thứ (1864) của nhà soạn nhạc Đức Johannes Brahms, trở nên phổ biến. Bởi vì piano sở hữu một phạm vi cường độ và sắc thái lớn hơn các nhạc cụ thính phòng khác. Những buổi biểu diễn nhạc thính phòng trước công chúng cũng trở nên phổ biến và các nhà soạn nhạc thường sáng tác nhạc thính phòng với dự tính để biểu diễn trước công chúng, vì vậy làm thay đổi chức năng ban đầu của nhạc thính phòng.

Một số xu hướng đã xuất hiện trong nhạc thính phòng thế kỉ 20. Các thể loại cổ điển như tứ tấu đàn dây được truyền thêm các cách biểu đạt và kỹ thuật đương đại trong các tác phẩm của các nhà soạn nhạc Pháp Claude Debussy và Maurice Ravel, nhà soạn nhạc Hungary Béla Bartók, các nhà soạn nhạc Áo Arnold Schoenberg và Anton Webern, nhà soạn nhạc Nga Dmitri Shostakovich và nhà soạn nhạc Mỹ Elliott Carter. Hòa tấu thính phòng rất đa dạng trong sáng tác – thường gồm các giọng hát, đàn harp, guitar và các nhạc cụ bộ hơi, bộ gõ – trở thành phương tiện chủ yếu cho âm nhạc mới của các nhà soạn nhạc như Schoenberg, Webern, nhà soạn nhạc Mỹ gốc Nga Igor Stravinsky và nhà soạn nhạc Pháp Pierre Boulez. Nhạc thính phòng, từng thuộc phạm vi của những người nghiệp dư và được chơi theo sở thích của họ, đã trở nên ngày càng phổ biến với các thính giả của phòng hòa nhạc. Nhiều nhóm hòa tấu thính phòng chuyên nghiệp nở rộ ở Mỹ và nhiều nơi khác.

* BALLADE

Trước hết chúng ta cần phải phân biệt rõ hai thuật ngữ Ballad (phát âm là BAL-led, trọng âm rơi vào âm tiết thứ nhất) và Ballade (phát âm là Bah-LAH-tah, trọng âm rơi vào âm tiết thứ hai). Ballad là một bài ca có cấu trúc tự nhiên đơn giản, thường ở hình thức kể chuyện hay diễn tả. Một ballad thường có một vài đoạn có cấu trúc tương tự và có thể có một đoạn điệp hoặc không. Nói cách khác, ballad là một câu chuyện, thường là một bài tường thuật hoặc bài thơ, được ngâm hoặc hát lên. Bất cứ hình thức chuyện nào cũng có thể được kể như là một ballad, chẳng hạn như những miêu tả mang tính lịch sử hay chuyện thần tiên theo hình thức đoạn. Nó thường rút gọn lại, luân phiên giữa các dòng theo nhịp 3 và 4 (nhịp ballad) và các vần lặp lại đơn giản, thường kèm theo một đoạn điệp. Nếu ballad dựa trên đề tài chính trị hay tôn giáo thì có thể là một bài tụng ca (hymn).

Khác với các ballad dân gian, ballad văn học là những ballad được soạn và viết một cách chính thức. Hình thức này trở nên phổ biến với sự tăng lên của chủ nghĩa Lãng mạn cuối thế kỉ 18. Các ballad văn học lúc đó có thể được phổ nhạc, như Der Erlkönig (Chúa rừng) và The hostage (Con tin) của Schubert được phổ từ các bài thơ ballad của Goethe và và Schiller. Trongopera Lãng mạn, một ballad được cho vào trong kết cấu âm nhạc có thể nhấn mạnh hoặc chơi tương phản với thời điểm sân khấu. Các ballad mang bầu không khí trong các vở opera được khởi xướng trong opera Der Freischütz của Carl Maria von Weber và gồm cả ballad của nhân vật Senta trong opera Der fliegende Holländer của Richard Wagner hay bài ca cổ “Salce” mà nhân vật Desdemona hát trong vở opera Otello của Giuseppe Verdi.
Còn Ballade là một kiểu thơ và ca khúc Pháp thời Trung cổ và Phục hưng thường có lời đề cập đến những thiên diễm tình. Ballade là một trong ba hình thức ổn định (cùng với rondeau và thể thơ điệp khúc hai vần – virelai) chiếm lĩnh nền ca khúc và thi đàn Pháp trong các thế kỉ 14 và 15. Theo khuôn mẫu chuẩn mực cuối thời Trung cổ, lời của ballade được chia làm ba khổ thơ có chung cách sắp xếp vần luật và nhịp điệu và kết thúc bằng một đoạn điệp.

Trong âm nhạc cổ điển, thuật ngữ ballade cũng được áp dụng cho một tác phẩm khí nhạc (thường là cho piano) theo phong cách kể chuyện. Frédéric Chopin đã sử dụng thuật ngữ này đầu tiên trong Ballade giọng Son thứ op.23, xuất bản năm 1836 nhưng bắt đầu sáng tác từ năm 1831. Ông đã sáng tác bốn ballade mà các đặc trưng chung của chúng là nhịp phức (6/4 hoặc 6/8) và một cấu trúc dựa trên các biến thể cùng chủ đề mà các niêm luật hình thức âm nhạc không chi phối nhiều như ý định mang tính chương trình hay văn học. Với đầy vẻ đẹp giai điệu, sự phong phú hòa âm và những cao trào mạnh mẽ, chúng nằm trong số những tuyệt tác của Chopin. Người ta cho rằng chúng được lấy cảm hứng từ những bài thơ ballad của nhà thơ đồng hương với ông là Adam Mickiewicz, đặc biệt là các bài Switeź và Switezianka, có liên quan đến một hồ nước gần Nowogródek và một nữ thủy thần của hồ ; nhưng chính Chopin không đưa ra bất cứ bằng chứng nào về niềm tin đó và hầu như chắc chắn ông không chủ tâm vào bài thơ ballad hay câu chuyện cụ thể nào.
Ballade op.9 (1844) của César Franck và các ballade giọng Rê giáng trưởng (1845–48) và Si thứ (1853) của Franz Liszt đi theo ballade của Chopin trong việc không liên hệ với các nguồn gốc văn học cụ thể. Sự liên hệ kiểu như vậy sớm nhất là ở Ballade No. 1 giọng Rê thứ trong tập Bốn Ballade cho piano op.10 (1854) của Johannes Brahms, mang để mục nhỏ là “theo bài thơ ballad Scot ‘Edward’ trong tập Stimmen der Völke của Johann Gottfried Herder (Bản dịch bài thơ ‘Edward’ của Herder đã được Loewe và Schubert phổ nhạc trước đó) ; nhưng như Mies đưa ra giả thuyết, Brahms ban đầu có thể đã dự tính nó như một tác phẩm thanh nhạc ở hình thức theo khổ thơ và trong quá trình sáng tác đã biến đổi nó thành một tác phẩm cho piano. Các ballade của Brahms, những hình mẫu lôi cuốn về bút pháp thời kỳ đầu của ông, có thể phân biệt với các ballade của Chopin bởi hình thức rõ ràng hơn của nó – thường là hình thức bài ca ba đoạn. Một hình thức theo khổ thơ, mà hầu như đương nhiên có hàm ý ballad văn học, xuất hiện ở Ballade in Form von Variationen über eine norwegische Melodie op.24 (1875–6) của Edvard Grieg.

Mặc dù các ballade khí nhạc thường viết cho piano, nhưng vẫn có những ballade được viết cho nhạc cụ khác. Trong số đó có Ballade và Polonaise op.38 (c1860) cho violin và dàn nhạc hoặc piano của Henri Vieuxtemps; Ballade op.19 (1881) cho piano và dàn nhạc của Gabriel Fauré, và một số ví dụ khác, cả thính phòng và dàn nhạc, của Frank Martin. Các ballade cho dàn nhạc (một vài bản được đề là “ballad”) thường được lấy cảm hứng từ nguồn gốc văn học, thường là những bài thơ nổi tiếng, chẳng hạn như L’apprenti sorcier (Học trò phù thủy) của Paul Dukas (dựa trên bài thơ Der Zauberlehrling của Goethe),Helen of Kirkconnell của Somervell và The Ship o’ the Fiend của MacCunn. Riêng với các ballade cho dàn nhạc, nét khác biệt giữa ballade và các hình thức liên quan với nó, rhapsody và symphonic poem (thơ giao hưởng), xem ra khá là mờ nhạt.

(còn nữa…)

(Nguồn: https://nhaccodien.org/)