Thứ Bảy, Tháng Mười 19, 2024
Trang chủ Blog Trang 95

Thanh Lam: Một lần cận cảnh

0
Thanh Lam: Một lần cận cảnh

Chị vẫn đẹp mặn mà, quyến rũ. Dường như không thể không ngắm thật lâu người đàn bà hát đã ở tuổi ngót ngũ thập tri thiên mệnh, một gương mặt khiến cho nhiều trái tim tan chảy khi đối diện với chị.

NSƯT Thanh Lam tuổi Kỷ Dậu, đã lên chức bà ngoại và trải qua rất nhiều sóng gió trong cuộc đời, nhưng với chị, mọi sự “tự nhiên nhi nhiên”, cái gì đến trong đời rồi sẽ đến, không ai có thể cưỡng được số phận. Bởi thế, mà chị vẫn có một đời sống tâm hồn đầy thanh thản giữa những thị phi xô bồ và đầy nhiễu loạn của giới showbiz.

Thanh Lam, dù đã trải qua mấy thập niên xuất hiện như là một nữ hoàng trên sân khấu, nhưng dường như, sự mặn mà ấy chưa bao giờ vơi bớt đi trong hình bóng bốc lửa và một trái tim nồng cháy của người đàn bà trên sân khấu…

Thanh Lam chẳng bao giờ hết bận. Chương trình nào cũng là chị của những giai điệu vừa ấm áp, vừa lãng mạn bay bổng và cũng đầy bốc lửa dữ dội. Gặp chị khoảng thời gian ít ỏi trong những ngày cuối năm đầy tất bật của phố phường vào xuân, vẫn là chất lửa lan tỏa và truyền nội lực cho người đối diện. Chị đến vừa dịu dàng, vừa ma mị. Và trong sự hối hả ấy, là những giây phút tĩnh lặng đầy ký ức của chị về những ngày đã qua của cuộc sống.

Ca sĩ Thanh Lam tuổi Kỷ Dậu, “Kỷ biến vi ân”, tuổi gà nên chị là một người tự lập từ bé. Mẹ chị kể lại rằng, những năm bà sinh chị, là những năm tháng cha chị, nhạc sĩ Thuận Yến, đi chiến trường nên cuộc sống của hai mẹ con đều do một tay mẹ chị chăm lo. Mẹ chị là một người xứ Nghệ, cũng tự lập, tính tình thẳng thắn và chân thật, nên điều đó cũng ít nhiều ảnh hưởng đến các con sau này.

Từ bé, Thanh Lam đã rất xinh đẹp và dễ thương nên đi đến đâu cũng được mọi người yêu quý. Có lần bà đưa con đến trường mẫu giáo đi học, có một ông họa sĩ chạy theo xe hai mẹ con xin được vẽ Thanh Lam. Nhưng lúc đó đã đến giờ vào lớp nên hai mẹ con họ đã từ chối lời đề nghị ấy.

Chị không chỉ là một người con gái đầy số phận mà bà đã sinh ra trong những giây phút hai vợ chồng phải chia xa trong những điều kiện khó khăn, khắc nghiệt của đời sống chiến tranh, mà chị là một nghệ sĩ dám dấn thân và chịu đựng mọi va vấp. Nhưng quan trọng hơn cả là bà luôn tin tưởng vào Thanh Lam; nên những vui hay buồn, những may mắn hay bất hạnh, những cái được mất gia đình họ đều tin vào quyết định của Thanh Lam.

Nghệ sĩ Thanh Hương cho rằng, con gà là hiện thân cho sự tự lực, tức khi gà con ra khỏi vỏ trứng đã chạy theo mẹ để tự kiếm ăn, khác hết tất cả các loài chim, loài thú là phải được chăm sóc cho ăn và bú mớm. Nên đối với Thanh Lam, sự tự lập ấy đã được hình thành tính cách ngay từ khi còn nhỏ.

Trong đời sống những người tuổi Dậu là những người nhanh nhẹn, cấp bách, rõ ràng không dẻo miệng. Công việc của họ lớn hay nhỏ đều có kế hoạch, thận trọng, mưu lược, do vậy họ ít khi bị thất bại hay ngỡ ngàng với các diễn biến của cuộc sống, vì họ lường trước được mọi việc trước khi bắt tay vào công việc.

Có lẽ bởi vậy mà Thanh Lam, trong cuộc sống là người luôn chu đáo, nhiệt tình. Luôn sống vì người khác, luôn là người quán xuyến và lo lắng cho mọi người trong gia đình từ những thứ nhỏ nhặt nhất, dù chị lúc nào cũng bận rộn với lịch biểu diễn.

Nữ nghệ sĩ đàn thập lục chia sẻ: “Cuộc sống cũng có nhiều điều khiến con người ta phải băn khoăn về những đứa con của mình, nhưng mãi mãi trong tôi, Thanh Lam vẫn là cô con gái bé bỏng, chịu thương chịu khó đã cùng cha mẹ vượt qua khó khăn của cuộc sống để học hành và trưởng thành. Đấy là những buổi sáng Lam thức dậy từ 4 giờ để học bài. Đấy là những lần Lam còng lưng gánh nước giúp ba mẹ…”.

Nói về tính cách của mình, ca sĩ Thanh Lam chia sẻ: “Tôi ảnh hưởng từ ba nhiều điều nhưng lớn nhất là sự khắc nghiệt với bản thân, sự đòi hỏi cao với bản thân mình. Cha tôi không chỉ là một người cha, mà còn là một người bạn, một người đồng nghiệp.

Từng ngày sống bên cạnh ông, ông đã truyền cho tôi một ngọn lửa vô hình về sự khát vọng vượt qua chính mình. Bài học lớn nhất mà ông truyền lại cho tôi về cuộc đời cũng như về nghệ thuật là sự chăm chỉ để đạt những hoài bão.

Tôi chưa từng thấy một người nào chăm chỉ như cha mình, ông giúp tôi cảm nhận được cuộc sống đích thực là phải lao động và tôi luôn luôn noi theo tấm gương của ông. Đối với tôi, những ngày gần gũi ông đều là những kỷ niệm.

Có những năm tháng hai chị em tôi đều sống một mình với ba vì mẹ đi công tác ở Sài Gòn, đêm đến ông kể chuyện, hát những bài hát của ông. Đặc biệt là ông thường hát bài Trời xanh, bài hát viết riêng cho tôi năm tôi 7 tuổi. Ông cũng là người dạy tôi nốt nhạc đầu tiên, là người hàng đêm đưa đón tôi đi hát.

Có những đêm trời mưa tầm tã, bố tôi đi xe máy đã đâm phải cả một bãi rác và hai bố con bị ngã chỏng chơ, tôi bị bỏng bô xe máy và vết bỏng ấy đến bây giờ vẫn còn sẹo. Thời điểm cả nước nghèo khó, tôi vẫn nhớ ba dắt tôi đi chơi trong khu tập thể ở Triều Khúc và hai cha con hái rau tập tàng về nấu canh ăn với cơm. Đó là những giây phút bình dị, lãng mạn của đời sống và điều đó chắc chắn sẽ mãi in đậm trong tâm trí của tôi”.

Thanh Lam là người mạnh mẽ và quyết liệt nhưng cũng đầy nữ tính. Chị bảo, đàn bà tuổi Kỷ Dậu luôn là một người ân nghĩa, biết lo lắng vẹn toàn cho gia đình, người thân, tốt với bè bạn… Dù không phải là người quá mê tín, song tuổi Kỷ Dậu cũng ứng vào chị nhiều điều, mà cho đến tuổi ngũ thập tri thiên mệnh, chị mới ngộ ra nhiều điều, những điều mà số phận đã an bài và mình sẽ phải chấp nhận nó để có thể sống tốt và sống bình an hơn trong quãng đời phía trước.

Đã lâu chị dành thời gian để ngồi thiền cho tâm can tĩnh lặng. Trên sân khấu thì vẫn sống hết mình cho âm nhạc, nhưng trong cuộc đời, phải có những giây phút riêng của mình. Càng lớn tuổi, chị càng ngẫm được nhiều điều.

Ngay cả một bài hát, thì mỗi giai đoạn, chị sẽ đưa vào đó những xúc cảm khác nhau để nó được thăng hoa theo cảm giác khác của chính người ca sĩ muốn mang tới cho khán giả. Ca sĩ không chỉ hát đúng lời, đúng nhạc, không chỉ hát hay mà còn phải đưa vào ca khúc ấy cả tâm tình của nhạc sĩ, của chính bản thân mình, thời đại mình và cả những dấu ấn của riêng không trộn lẫn, trong đó có cả những niềm vui, nỗi buồn, mất mát, khổ đau và cả những thăng hoa trong cuộc đời…

Thanh Lam cũng từng chia sẻ rằng, trong cuộc đời, chị sợ nhất là sự giả dối: “Cho dù cái thật nó có cái thô ráp, mộc mạc, vụng về, gai góc, thì nó cũng đáng yêu gấp vạn lần sự giả dối dù trơn tru ngọt ngào. Tôi không có khả năng làm điều giả dối. Và không khuyến khích mọi người dùng “hàng giả”. Tôi sống vừa với mình, đúng với mình, không làm gì để phải hổ thẹn. Cuộc sống có kiếp này, nghiệp kiếp trước, theo triết lý nhà Phật, nhưng với con người, thì kiếp này, ta cũng chỉ sống đúng có một lần trên đời.

Tại sao mình không sống đúng là mình? Lý lẽ đó, nhiều người vẫn dùng để bao biện cho những cảm xúc quá cá nhân, hoặc những cá tính thái quá… Sống để mà phải bao biện, cũng là sống giả. Sống thật, cũng cần phân biệt, không vì thẳng thắn mà tôi cho phép mình thẳng một cách thô bạo. Với người văn minh, cái thật ở đây là sự trung thực được nuôi dưỡng bằng những gốc rễ văn hóa sống.

Quan trọng nhất của mọi giá trị sống chính là cảm xúc của mình trước đã. Mình phải hạnh phúc, phải dễ chịu, thì mình mới biết yêu thương và cho người khác hạnh phúc. Tôi không thể giả dối để mang niềm vui cho người khác được. Thế nên, hãy sống đúng là mình, với cảm xúc của mình để ta có những cảm xúc thật, vui buồn thật, đau khổ thật, hạnh phúc thật”.

Nhiều người vẫn cho rằng, nói đến ca sĩ Thanh Lam là nói đến một người đàn bà hát đầy nổi loạn, nhưng trên thực tế, chị là một người đắm say trong tình cảm. Nghệ sĩ Thanh Hương mẹ chị nói rằng, từ bé đi xem tử vi cho con, thầy tử vi đã bảo rằng, Thanh Lam sẽ thành công trong sự nghiệp, sẽ nổi tiếng, nhưng đường tình duyên thì lận đận, trắc trở.

Có lẽ đó là số phận đã định sẵn đường đi cho chị. Trong tình yêu, chị đã có lần thổ lộ, ưu điểm của chị là sự nhạy cảm, nó là điểm mạnh trong nghệ thuật nhưng lại là yếu điểm trong tình yêu, nó khiến chị thành một người phụ nữ yếu đuối. Và đúng, trong đời chị, chỉ có tình yêu mới khiến chị đi sai hướng và làm nên những biến động của cuộc đời mình. Dù vẫn biết rằng tình yêu có lý lẽ riêng song chị là một kẻ si tình có những sự vững vàng để đối diện trước tất cả, dù có đau khổ, mất mát.

Chị bảo: “Tôi gặp những sóng gió tình cảm, người ta nghĩ là không may nhưng tôi lại nhìn theo hướng tích cực rằng, đó chính là những thử thách của cuộc sống để mình trưởng thành hơn trong cuộc sống. Tôi biết trân quý hơn những giá trị mình có và đã nạp được rất nhiều dữ kiện, cảm xúc sống để sống hay hơn”.

Thời điểm này, chị dành nhiều thời gian cho mẹ chị, nhất là khi bố chị đã ra đi. Chị bù đắp đủ đầy mọi thứ cho mẹ để bà không phải buồn phiền. Chị đưa bà đi du lịch, mua tặng những thứ bà thích không thiếu một thứ gì. Mùa xuân, chị về căn nhà để sống lại những tháng năm ấm áp của đời mình và cũng dành hầu hết thời gian để quây quần bên gia đình, con cháu.

Có một bà ngoại Thanh Lam là một đầu bếp cực kỳ sành sỏi và khéo léo đong đầy dư vị tình yêu gửi gắm trong từng món ăn mà chắc chắn, ai đã chạm vào dư vị ấy, cũng sẽ nhớ mãi những dư âm ngọt ngào của bàn tay nữ hoàng ca nhạc chứ không chỉ là những giai điệu ngọt ngào, bốc lửa đầy dấu ấn trên sân khấu ca nhạc…

Quách Thị Hồ – Sênh phách giọng sầu gửi bóng mây

0

Tiếng hát của Quách Thị Hồ đẹp và tráng lệ như một tòa lâu đài nguy nga, lộng lẫy, mà mỗi tiếng luyến láy cao siêu tinh tế của bà là một mảng chạm kỳ khu của một bức cửa võng trong cái tòa lâu đài ấy. Tiếng hát ấy vừa cao sang bác học, vừa mê hoặc ám ảnh, diễn tả ở mức tuyệt đỉnh nhất các ý tứ của các văn nhân thi sĩ gửi gắm trong các bài thơ.

Có một thời gian rất dài ca trù không được quan tâm. Có lẽ từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, cùng với những tàn dư xấu xa của chế độ phong kiến, sinh hoạt cô đầu, hay hát ả đào, vốn đã có tiếng rất xấu từ đầu thế kỷ, cũng bị quét đi, không thương tiếc. Các cô đào, dù hát còn hay, dù còn thanh sắc cũng giấu kỹ phách, các kép hát thì gác đàn lên xà nhà, giấu đi cái hành trạng một thời làm nghề hát xướng của mình để nhập vào cuộc sống mới. Không ai dám hát, không ai dám đàn, không ai dám nhận mình là cô đầu nữa. Con cái các đào kép một thời lững lẫy bỗng đâm ra xa lánh, sợ sệt cha mẹ mình. Tiếng xấu sinh hoạt ả đào trùm lên cả xã hội. Nhắc đến cô đầu người ta sợ. Nhắc đến hát ả đào, người ta nghĩ đến một thú ăn chơi làm cho người ta khuynh gia bại sản, có hại cho phong hoá và luân lý. Người ta cho cô đầu là cái người: “Lấy khách – khách bỏ về Tàu, lấy nhà giàu – nhà giàu hết của”.

Mà cũng có chỗ không oan. Với vẻ thanh thoát của vóc dáng của những người không phải chịu cảnh chân lấm tay bùn, các cô lại khéo ăn nói, do được tiếp xúc toàn với văn nhân nho sĩ, nên nhiều người đã bị các cô làm cho mê mẩn. Có người phải bán ruộng, bán nhà; có kẻ phải giấu lương tháng, lừa dối vợ con để lấy tiền đi hát. Nhà hát lại là nơi hấp dẫn nhất trần đời: nào các cô hát hay, nào các cô tiếp rượu khéo, nào các cô đấm bóp ấm êm. Biết bao cảnh đánh ghen tầy trời nơi các ca quán. Biết bao đôi vợ chồng phải ly biệt, tan cửa nát nhà vì cô đầu. Tiếng xấu ấy, trăm năm còn in vết.

Các người ca thưở trước đều tìm một nghề khác kiếm sống, giấu biệt cái nghề ca hát của mình đi. Có đào nương phải kiếm một gánh nước chè độ nhật cho đến tận lúc cuối đời. Nhiều đào nương lần hồi kiếm các công việc để độ nhật, và giấu biệt đi cái nghề ca hát của mình, cho dù nó đã từng đem lại ít nhiều vinh quang cho bà trong thời trẻ trung. Có đào nương trở về với công việc đồng áng, cố che lấp đi cái nghề ca hát của mình. Gặp lại các bà để hỏi về ca trù, các bà còn run sợ, các bà không dám nói. Mặc dù thưở trước Tổ đã cho các bà ăn lộc, cho các bà những hào quang, nhưng nay thì các bà dứt khoát dứt ra khỏi cái liên hệ này. Tìm gặp các bà, có cảm giác như họ đang ôm trong mình một khối u lớn. Có bà trả lời giằn dỗi, như hắt nước lạnh vào người đang hỏi chuyện. Lâu dần trong số họ trở nên kiêu ngạo, cao đạo, nào tránh gặp báo chí, nào tránh gặp truyền hình, nào tránh các cuộc giao lưu. Không ai dám đến gần khiến cho người đào nương già nua lại trở nên cô độc, thù ghét xung quanh, khinh ngạo mọi người trong và ngoài nghề.

Trong hoàn cảnh ấy, chỉ có một người phụ nữ, người mà nét tài hoa và đa tình còn in trên khuôn mặt đã nhăn nheo, mà nét kiêu sa lừng lẫy chốn ca trường còn trong từng âm thanh giọng nói – vâng chỉ có người ấy là dám nhận mình là một ả đào, như bà đã từng nói là bà dám đeo cái biển trước ngực “Tôi là ả đào”. Bà kể rằng: Hồi trước có mấy ông lãnh đạo văn hóa nói thẳng vào mặt tôi rằng: “Cái nghề ca trù của bà chỉ phục vụ bọn thực dân phong kiến, cái cây đã chết, cho nó chết, lấy đâu hoa mà nở”. Lúc đó tôi cười: “Rồi xem, hoa có nở không?”.(Báo Lao Động chủ nhật, số 40, ngày 20.10.1991, tr.5). Đấy, thái độ của bà rõ ràng và tự tin như vậy! Vâng, cả cuộc đời của bà lúc nào cũng một niềm thuỷ chung với nghề tổ. Bà được Tổ cho ăn lộc, đem cho bà vinh quang và cả đắng cay nữa. Bà dám sống cho nghề tổ, chịu vinh, chịu nhục vì nghề. Khi bà ba mươi tuổi, đang lừng lẫy chốn ca trường, thi sĩ Trần Huyền Trân viết tặng bà bài thơ Sầu chung. Một bài thơ mà từng chữ, từng lời hiểu bà từ gan ruột. Bà là Quách Thị Hồ nghệ sĩ lớn nhất của ngành ca trù trong thế kỷ XX.

Cho đến một hôm, GS Trần Văn Khê, từ Pháp trở về. Ông ghi âm tiếng hát của bà để đem đi giới thiệu với thế giới.

Năm 1978, Hội đồng Âm nhạc Quốc tế của UNESCO và Viện Nghiên cứu Quốc tế về Âm nhạc So sánh đã trao bằng danh dự cho bà vì bà có công lao đặc biệt trong việc bảo tồn một bộ môn nghệ thuật truyền thống có giá trị văn hóa và nghệ thuật cao. Và từ đó tên tuổi của bà cùng tiếng hát ca trù độc đáo của Việt Nam trở nên vang lừng trong bốn biển. Năm 1988, tại Liên hoan quốc tế Âm nhạc truyền thống tại Bình Nhưỡng, có sự tham gia của 29 quốc gia, băng ghi âm tiếng hát của Quách Thị Hồ, đại diện cho Việt Nam được xếp hạng cao nhất.

Bà được nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân. Và cho đến hôm nay, bà là người đầu tiên và duy nhất được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân ngành ca trù. Sau bà, không còn ai được phong Nghệ sĩ Nhân Dân về ca trù nữa. Và bà thật xứng đáng với danh hiệu này. Tiếng hát ca trù độc đáo, lạ lùng và đầy sức hấp dẫn của Quách Thị Hồ đã vang lên, đại diện cho Việt Nam, làm rạng rỡ cho âm nhạc và văn hoá Việt Nam.

Sau đó, Đài Tiếng nói Việt Nam mới ghi âm tiếng hát của bà, phát trong các chương trình ca nhạc cổ truyền. Năm 1984, Trung tâm Nghe Nhìn (nay là Hãng Phim Truyền hình) tổ chức làm phim “Nghệ thuật ca trù” (Kịch bản và đạo diễn Ngô Đặng Tuất) tại Lỗ Khê. Đây cũng là dịp tập trung nhiều nhất các danh ca, danh cầm nổi tiếng trong giới ca trù như: Quách Thị Hồ, Nguyễn Thị Phúc, Nguyễn Thị Hào, Chu Văn Du, Nguyễn Thế Tuất, Phó Đình Kỳ, Đinh Khắc Ban, Phó Thị Kim Đức, Nguyễn Thị Mùi. Nhà nghiên cứu Ngô Linh Ngọc dẫn chương trình và đọc lời bình cho toàn phim. Năm 1980, Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội tổ chức biên soạn cuốn sách Hát Cửa đình Lỗ Khê, được dư luận đánh giá tốt.

Nghệ sĩ Quách Thị Hồ tạ thế lúc 3h 45 phút, ngày 4 tháng Giêng năm 2001, tức ngày 10 tháng Chạp năm Canh Thìn. Thọ 92 tuổi. Trong sổ tang tôi đã viết: “Nghệ sĩ Quách Thị Hồ ra đi có mang theo tất cả những gì là cao quý, sang trọng và bác học của nghệ thuật ca trù trong thế kỷ XX”.

Nghĩ đến hôm bà mất, càng thấy thương bà, khi mất, không có đất chôn. Con cháu phải mua một mảnh đất mấy mét vuông bên Gia Thuỵ để làm nơi yên nghỉ cho bà. Ba thước đất đã vùi sâu một nghệ sĩ tài hoa, sống đã làm vẻ vang cho ca trù, danh thơm bốn bể, cùng với cả trăm cay nghìn đắng, mà vẫn sáng ngời lòng thuỷ chung với Tổ với nghề. Nay bà khuất nẻo suối vàng, nhưng tiếng hát của bà còn vang mãi, với non sông này, với nghệ thuật này.

Ngô Hồng Quang: chỉ nói chuyện nhạc thôi đã hết ngày

0

Ngô Hồng Quang là nhạc sĩ trẻ đang làm việc tại Hà Lan sau một thời gian du học. Anh là cái tên mà rất nhiều nghệ sĩ muốn kết hợp những khi họ định “làm gì đó” liên quan đến âm nhạc dân tộc Việt Nam.

Quang lúc nào cũng đầy cảm hứng với âm nhạc truyền thống, anh mê những cây đàn nhị, đàn tính…

Ngô Hồng Quang trên sân khấu cùng nghệ sĩ Nguyên Lê

Tình yêu với âm nhạc dân tộc cộng với nhiệt huyết tuổi trẻ khiến anh luôn tìm tòi cái mới mẻ trong loại hình âm nhạc tưởng chừng như đã được định hình lâu đời, khó lòng thay đổi được gì. Quang muốn mang âm nhạc Việt Nam đi thật xa, muốn khán giả ở nhiều nơi trên trái đất này biết rằng âm nhạc của đất nước anh đẹp đẽ đến dường nào.

Anh say sưa nói về âm nhạc đến mức khiến người khác nghĩ rằng Quang chỉ nói về chuyện nhạc thôi thì đã hết ngày và việc “lèo lái” anh sang một chủ đề khác chẳng dễ dàng. Nhưng Quang không chỉ nói, rất nhiều khán giả đã lặng người đi khi tiếng đàn của anh vang lên.

– Anh chơi các loại nhạc cụ dân tộc Việt Nam từ năm 13, 14 tuổi. Cái duyên để anh đến với âm nhạc dân tộc như thế nào và điều gì khiến anh gắn bó đến giờ?

– Trước lúc đi học tại Nhạc viện Hà Nội, tôi thường được nghe ông nội chơi đàn nhị. Tôi rất gần gũi với ông nội, có lẽ đây là cái duyên lớn nhất đã dẫn tôi đến con đường âm nhạc chuyên nghiệp sau này. Tôi càng yêu âm nhạc dân tộc khi hiểu hơn về vẻ đẹp của âm nhạc ngũ cung và sự gắn kết của nó đối với ngôn ngữ cũng như tư duy của người Việt.

– Ông nội kết nối anh với âm nhạc thật sớm nhưng may mắn hơn đó cũng chính là niềm đam mê của anh để anh không phải loay hoay đi tìm chính mình như nhiều bạn trẻ khác. Anh có nghĩ vậy không?

– Đúng thế, và may mắn hơn nữa là bố đã phát hiện ra năng khiếu của tôi từ khi còn nhỏ và hướng tôi theo con đường nghệ thuật. Tôi phải cảm ơn bố nhiều lắm.

– Tour diễn Hanoi Duo ở Hà Nội, Huế, TP.HCM và một số quốc gia khác vừa qua đã được cả giới chuyên môn và khán giả đánh giá cao. Tiết mục cuối cùng khép lại, họ đồng loạt đứng lên vỗ tay không ngừng, hẳn điều đó đã đem lại cho anh và các nghệ sĩ nhiều cảm xúc?

– Tôi bắt đầu có ý tưởng về Hanoi Duo ngay sau khi tôi được mời tham gia các show diễn tam tấu Saiyuky của nghệ sĩ Nguyên Lê (nghệ sĩ nhạc jazz nổi tiếng thế giới). Sau những lần lưu diễn đó, tôi nhận thấy mình thực sự có sự kết nối với thể loại âm nhạc của Nguyên Lê. Tôi đã đề xuất ý tưởng kết hợp với nghệ sĩ Nguyên Lê làm gì đó liên quan đến Việt Nam và cuối cùng ý tưởng đã thành hiện thực như
mong muốn.

Niềm vui sau các buổi diễn thật khó tả. Tại Việt Nam, khán giả biểu hiện cảm xúc của họ hết sức mãnh liệt và hồ hởi. Có lẽ là vì tôi hát rất nhiều bài bằng tiếng Việt và họ cũng nhìn thấy được sự kết nối ăn ý trong âm nhạc giữa tôi và Nguyên Lê. Tại Pháp thì khán giả không muốn ra về sau khi hết show, họ muốn níu kéo cảm xúc vui đó đến hết đêm. Đối với tôi, đây là niềm vui vô bờ bến.

Tin vui là Hanoi Duo đã có lịch lưu diễn tại rất nhiều nước châu Âu trong năm nay và tôi tin sẽ có nhiều show tiếp đó nữa.

– Một hãng đĩa ở châu Âu đã tài trợ cho nhạc sĩ Nguyên Lê và anh phát hành CD Hanoi Duo – một CD rất Việt Nam, trong khi thực tế là ở Việt Nam anh chẳng dễ dàng gì để có được những tài trợ như vậy. Anh nói sao về điều này?

– Vấn đề có vẻ nghịch lý nhưng cũng dễ hiểu. Những sản phẩm tôi làm ở Việt Nam trước đây đều là do tôi tự tổ chức sản xuất. Tôi đã tìm nhiều cách để tiếp cận các nhà đầu tư tài trợ nhưng không thành công. Một phần là thể loại âm nhạc của tôi đang theo đuổi không phổ thông và khá kén người nghe, phần khác là những nhà tài trợ cũng cần nhận được gì sau khi tài trợ.

Những sản phẩm tôi làm ở châu Âu (Song hành, Hanoi Duo) được họ hưởng ứng ngay. Tôi thấy họ khá nhanh nhạy trong việc nắm bắt thị trường, hơn nữa họ nhận thấy được tiềm năng nghệ sĩ cũng như sản phẩm của tôi và các nghệ sĩ kết hợp.

– Những tham vọng tiếp theo của anh trong âm nhạc là gì?

– Sẽ là các dự án có liên quan đến âm nhạc truyền thống nhưng ở nhiều định hướng mở, như kết hợp với các khí nhạc phương Tây hoặc khoác lên nó những tấm áo mới mang hơi thở đương đại.

– Anh luôn nói rằng âm nhạc ngũ cung của Việt Nam rất đẹp. Anh có thể diễn tả cái đẹp ấy bằng lời?

– Trước tiên nó đẹp bởi sự gắn kết rất đặc biệt với tiếng Việt. Với sự uyển chuyển của sáu âm điệu trong ngôn ngữ, âm nhạc ngũ cung cũng uyển chuyển bởi những ngữ âm đó để phù hợp với ngữ nghĩa của ngôn từ. Hơn nữa, những đường nét hoa mỹ trong nhạc ngũ cung của Việt Nam còn thực sự riêng biệt.

Những nét rung nhấn, vuốt, láy… của các thể loại nhạc truyền thống rất đa dạng. Sự đa dạng này không tồn tại ở một thể loại âm nhạc mà còn hiện diện trong rất nhiều thể loại khác nhau của nhiều nhóm dân tộc khác nhau trên đất nước ta, tạo nên một nền âm nhạc dân tộc Việt đặc sắc.

– Xem anh biểu diễn và say sưa nói về âm nhạc, đặc biệt là âm nhạc dân tộc, thì có thể tin rằng anh tha thiết muốn mang âm nhạc của mình đi xa, thật xa?

– Tôi đã làm điều này từ năm 2014. Đất nước đầu tiên tôi đi trình diễn nhạc dân tộc là Hàn Quốc. Tôi đã biểu diễn cho các giáo sư, giảng viên tại một trường đại học của Pusan. Qua lần diễn ấy tôi nhận thấy mình có khả năng làm công việc trình diễn âm nhạc dân tộc và sau đó tôi đi châu Âu trình diễn tại nhiều nước.

Công việc của tôi là trình diễn và giải thích các nhạc cụ cũng như văn hóa âm nhạc trên các vùng miền của Việt Nam cho khán giả các nơi. Tôi rất thích công việc này vì nó cho tôi thêm năng lượng sống và làm việc.

– Ngoài tình cảm dành cho âm nhạc, có lẽ phần nào trách nhiệm công dân trong anh khiến anh luôn muốn khoe cái hay cái đẹp của dân tộc?

– Đúng vậy. Tôi rất yêu văn hóa âm nhạc Việt Nam. Tôi là người Việt Nam nên việc quảng bá hình ảnh Việt Nam rất thiết thực, nó cũng như quảng bá chính bản thân tôi vậy.

– Nói một cách thẳng thắn thì anh thấy âm nhạc dân tộc, nhạc cụ dân tộc Việt Nam đã được đối đãi xứng đáng chưa, kể cả nghệ sĩ lẫn khán giả?

– Nói thực là chưa, nhiều lúc nghĩ tới tôi thấy buồn và nản chí. Việc nghệ sĩ nhạc dân tộc vẫn phải hàng đêm tới các nhà hàng để chơi nhạc dân tộc cho thực khách hoặc làm nhiều công việc khác nhau để có thêm thu nhập đủ thấy rằng họ phải lăn lộn thế nào để mưu sinh. Tôi nghĩ cần phải có những chính sách đề cao vai trò của những người đang làm văn hóa âm nhạc dân tộc, để tạo thêm động lực làm việc và giữ lửa cho âm nhạc truyền thống Việt Nam.

Chính vì lăn lộn với mưu sinh nên nhiều khi người nghe lại không được thưởng thức trọn vẹn và đúng nghĩa với việc thưởng thức nghệ thuật âm nhạc truyền thống. Tôi nghĩ nghệ sĩ nhạc dân tộc Việt Nam cần được tôn trọng và quan tâm hơn nữa.

– Có nghịch lý không khi khán giả quốc tế tò mò và muốn tìm hiểu về âm nhạc dân tộc Việt Nam, còn khán giả trong nước – đặc biệt là giới trẻ – rất thờ ơ với thể loại này? 

– Nghịch lý này tồn tại khá lâu rồi, từ lúc tôi mới bước chân vào con đường này. Tôi đã và đang làm mọi cách để có thể tiếp cận với nhiều khán giả trong nước hơn nữa, đặc biệt là khán giả trẻ.

Qua trải nghiệm tôi thấy, khán giả quốc tế tò mò vì họ rất thích những thứ mới lạ, họ có văn hóa nền về âm nhạc khá cao và thích học hỏi, điều này đã tạo cho tôi nhiều động lực trong việc quảng bá. Còn với khán giả Việt Nam, đặc biệt là người trẻ, họ được sống và nuôi dưỡng trong một môi trường âm nhạc mà sự lan tỏa đa dạng, phức tạp của âm nhạc pop, nhạc có lời rất mãnh liệt, âm nhạc là phải có lời.

Việc truyền thông về âm nhạc truyền thống cũng chưa đủ mạnh đã khiến sức sống của âm nhạc dân tộc lịm đi trong sự im lặng. Tôi không nghĩ là người Việt Nam không thích nhạc truyền thống, vì qua những show diễn của tôi ở Việt Nam những năm gần đây, tôi thấy khán giả đã thay đổi tư duy và cũng đang hướng tới những điều mới mẻ trong cái truyền thống. Tôi tin vào tương lai của âm nhạc truyền thống ở Việt Nam.

– Anh còn muốn tìm hiểu âm nhạc các dân tộc thiểu số của Việt Nam và các nước. Vì sao có sự yêu thích này?

– Chỉ đơn thuần là tôi rất thích những âm thanh và văn hóa âm nhạc của các dân tộc thiểu số đặc biệt sống ở miền núi tại Việt Nam cũng như các nước. Tôi thích sự đơn giản trong lối sống và cách tư duy của họ.

– Anh rong chơi trong âm nhạc: đánh đàn năm, sáu tiếng đồng hồ mỗi ngày không chán, tập tành các loại nhạc cụ và mặc sức thể nghiệm mọi thứ một cách thoải mái như thể không hề có một áp lực nào, không có sự hoang mang và cũng không có gì có thể ngăn cản được?

– Đúng thế. Tôi có thể sống trong môi trường mà xung quanh toàn là nhạc cụ dân tộc. Có lẽ tôi có duyên nợ với những thanh âm mê hoặc này!

– Hãy kể một chút về gia đình bạn, ngoài bạn ra còn có ai chơi nhạc không?

– Nhà tôi, ngoài ông nội chơi đàn nhị thì không có ai chơi nhạc cụ hay theo nghề này. Bố tôi là người rất có năng khiếu âm nhạc nhưng ông cũng không theo con đường này.

– Ngoài âm nhạc, những thứ khiến anh bận tâm tiếp theo sau là gì? 

– Tôi thích ngoại ngữ, nghiên cứu lịch sử và Phật giáo.

– Riêng về âm nhạc thì có thể hiểu rằng anh muốn vươn đến đỉnh cao, còn về những nhu cầu khác trong cuộc sống thì sao?

– Tôi sống khá đơn giản, nhưng không có nghĩa là tôi không quan tâm đến chất lượng cuộc sống. Tôi cần một cuộc sống đủ chất lượng để sống khỏe và làm việc hiệu quả.

Ca sĩ Mỹ Linh: Sống giữa khung trời ảo mộng

0

Biệt thự của gia đình ca sĩ Mỹ Linh ở Sóc Sơn rải đầy hoa và những thảm cỏ Nhật một màu xanh mướt. Trong vườn nhà chị, dường như không thiếu một loại hoa nào, đủ các sắc màu trong không gian xanh.

Chị giản dị trong bộ quần áo “nông dân”, gương mặt không phấn son mộc mạc, tự tay chị cắt tỉa cho cây để mùa xuân đâm chồi nảy lộc. Chị bảo, dù bận rộn với lịch biểu diễn, lịch làm giám khảo các chương trình truyền hình, song, mỗi lần trở về căn nhà đầy màu xanh và không khí mát lành của mình, chị lại được làm mới chính mình, sống thật là mình trong tình yêu của gia đình, chồng con…

Tôi nghe và đọc nhiều bài báo viết về chị, đâu đó nhiều ý kiến về Mỹ Linh, rằng chị là một người mẹ tuyệt vời, một người vợ bận rộn, một người phải làm có khi gấp nhiều lần sức lực của mình để giữ thăng bằng cho căn nhà hạnh phúc ấy…

Tôi cũng đi qua đi lại thật nhiều lần ngang qua cổng căn nhà vườn trên Sóc Sơn của chị, lúc nào căn nhà ấy cũng cửa đóng then cài, đằng sau cái cổng đơn sơ bằng sắt tấm, đằng sau hàng rào bằng trúc đầy kiên cố là vài ba người làm công, chăm bẵm cho vườn cây của chị những lúc chị vắng nhà và đằng sau cánh cổng ấy là rất nhiều… chó giữ nhà, mỗi khi khách đến, người giúp việc phải mất dăm bảy phút để nhốt những chú chó hung dữ.

Gặp Mỹ Linh, cảm giác ban đầu, là sự ấm áp, thân thiện đến lạ lùng. Dường như, hòa vào không gian cảnh vật nhà chị, là tất cả sự sẻ chia về cây cối, về những loài hoa đang đua nhau khoe sắc, ngào ngạt hương hoa bưởi, thoang thoảng hương hoa hồng, thanh mảnh những cành đào giữa mùa xuân muộn…

Mỹ Linh khác nhiều nghệ sĩ khác, chị không màu mè, không làm dáng, ở trong căn nhà cực đẹp và cực phong cách của chị, là một Mỹ Linh vừa xắn tay làm vườn, vừa có thể trò chuyện đầy hài hước về những câu chuyện của đàn bà, vừa lúc nghỉ tay lại mời khách thưởng thức nước chè xanh và bánh quy tự làm để có thể ngắm nghía mọi góc căn vườn đẹp mê hồn của chị.

Tôi hỏi Mỹ Linh, người ta bảo rằng, trong gia đình chị, chị là người… lao động chính, thậm chí là phải làm gấp đôi sức lực của mình, có nghĩa là phải cáng đáng nguyên cả phần của Anh Quân nữa để trang trải đời sống. Bởi vậy mà chị “chạy sô” rất nhiều chương trình lớn nhỏ…?

Mỹ Linh cười: Trong giới nghệ sĩ, nếu chỉ nghe lời đồn thì nghe suốt ngày thôi. Nên tôi không quan tâm đến những lời đồn. Anh Quân thì bị… nghĩ oan nhiều lắm. Chúng tôi cũng chẳng cần thanh minh làm gì. Chỉ biết rằng, nếu không có anh Quân, thì tôi không làm được gì ra hồn cả.

Thậm chí là trong âm nhạc, nếu không có anh Quân thì tôi lấy đâu ra tiền mà làm đĩa. Để sản xuất một đĩa nhạc tử tế, một ca sĩ cần rất nhiều tiền. Để có một bài hát ra đời gắn với tên tuổi của mình, cần rất nhiều tiền. Tôi thì không mất xu nào cả, chỉ đơn giản, tôi được làm vợ của anh Quân. Tôi muốn một đời sống nhẹ nhàng, có thể cần cù làm việc nhưng không phải quá sức bon chen.

Quan niệm sống của tôi khá nhẹ nhàng, cái gì đến cứ đến, đi cứ đi, không việc gì phải cuống cả lên! Phụ nữ nhìn chung nên nhẹ nhàng, đừng có căng thẳng làm gì mà mệt vào mình trước hết. Càng tham vọng càng dễ tuyệt vọng, nên tốt nhất là hãy biết tự bằng lòng với những thứ vừa vặn với mình, vừa đỡ mệt mình mà cũng đỡ mệt cho những người sống cạnh mình. Năng lượng sống cần thiết nhất là nguồn năng lượng có thể giúp mình cân bằng, bền bỉ, chứ không phải là thứ lửa gas, bùng lên một lúc rồi cạn kiệt…

Vợ chồng đến với nhau, ở lại được cùng nhau đến đầu bạc răng long, đó là duyên số, mình muốn tránh cũng không được, mà muốn cố để xích lại gần nhau mà không phải là định mệnh thì cũng không thế nào “cố” được đâu. Nên mình cứ sống an nhiên, tự tại để lòng được bình an ở mức nhiều nhất có thể…

Ngồi trong vườn nhà chị, nghe tiếng chim hót, tiếng gió vi vu trong không gian rộng rãi thoáng mát, dường như mọi muộn phiền tan biến. Mỹ Linh khác nhiều ca sĩ khác, chị tìm về chốn yên tĩnh để tĩnh tâm sau những giờ lao động miệt mài trên sâu khấu. Ở đây, chị không phải là một Diva lộng lẫy cùng ánh sáng và âm thanh, mà chị là một người làm vườn chăm chỉ. Tỉa tót cho những đóa hồng, vun gốc cho những cây hoa mộc đơn sơ thơm ngát.

Chị lấy cho tôi xem những cuốn sách về vườn và cây được chị mang về từ đất nước Nhật Bản sau những lần lưu diễn. Chị bảo, đây là những cuốn sách “bảo bối” mà chị gối đầu giường để trồng cây theo phong cách Nhật Bản. Triết lý làm vườn của người Nhật quả thật sâu sắc, khi nó luôn biết cách nén cái lớn trong cái nhỏ và giúp cái nhỏ không bị chìm lấp giữa cái lớn…

Ít nhiều, có thể lấy ra được từ đó những bài học sống cũng như bài học làm nghề cho mình. Đôi khi chỉ cần vui với cây cỏ thôi là cũng đã đủ năng lượng sống cho một ngày thì mình vừa là người sáng tạo, lại cũng đồng thời là người thưởng thức. Mắt mình nhìn được, thì có nghĩa là được.

Còn nghề hát, thì đó là nghề “làm dâu trăm họ”, cái mình tâm đắc chưa chắc khán giả đã đồng cảm. Tuy nhiên, phẩm chất chung cần có giữa người làm vườn và người làm nghệ thuật, đấy là sự kiên trì, tinh tế.

Nghệ thuật là sự thách thức trước thời gian. Còn một khu vườn rộng lại là sự đánh đố của không gian. Phải tính sao cho vườn rộng mà không loãng, chia mà không bị rời; sao cho ngồi đâu, mùa nào cũng phải có cái để mà nhìn ra, khoảng không nào cũng phải ẩn chứa một bức tranh trong đó… Nếu bạn ngồi ở khu vườn nhà tôi, tôi muốn ở góc nào, bạn cũng cảm nhận được từng chi tiết đẹp và lãng mạn của thiên nhiên, cảnh vật.

Nói chuyện cùng Mỹ Linh về cây, dường như chẳng bao giờ chán. Chị có đủ kinh nghiệm và thời gian để có thể làm cho khu vườn của mình trở nên đẹp đẽ. Cảnh đẹp, tâm hồn lãng mạn và bình an, nên cái triết lý sống của Mỹ Linh cũng đầy giản dị.

Chị bảo: “Mỗi ngày chưa chắc đã chọn được một niềm vui, vì mọi thứ cứ chợt đến chợt đi, như thời tiết hôm mưa hôm nắng. Nên cả khi đời sống không được vui, tôi cũng sẽ vẫn mở lòng tiếp nhận nó. Người ta chỉ mệt khi cứ cố chống lại lẽ tự nhiên đó mà thôi… Ngoài đời, tôi ăn vận trang điểm khá là giản dị, cũng có thể là do cái tôi của tôi không quá lớn tới mức khiến tôi luôn có nhu cầu phải “khác người”, “hơn người” và phải được tất thảy mọi người nhìn thấy theo cách đó.

Ngay cả trên sân khấu, tôi cũng thường không cố tìm đủ mọi cách để đặt dấu ấn của mình vào đâu đấy mà chỉ muốn dấu ấn, nếu có, sẽ tự nó tỏa ra một cách giản dị, tự nhiên.

Càng về sau này, tôi càng nhận ra rằng, chẳng có vẻ đẹp nào là giàu sức hút bằng sự giản dị tự nhiên, cả trong đời sống cũng như trong âm nhạc. Tôi thích vẻ đẹp và sức hút lặng lẽ của một bông hoa dại, ai thích thì sẽ thấy, ai không thích thì sẽ bỏ qua, và cũng không sao. Được tất thảy mọi người nhìn thấy chưa chắc đã hạnh phúc hơn là được một số người thực sự quan tâm đến mình nhìn thấy…”.

Gia đình ca sĩ Mỹ Linh.

Ngôi nhà của ca sĩ Mỹ Linh có gu riêng không hề trộn lẫn, cũng như chị, một tính cách không trộn lẫn, một tình yêu đầy nồng nàn với người đàn ông của riêng mình không ồn ào mà bền bỉ. Chị là người giữ lửa, một ngọn lửa âm ỉ mà nồng đượm và đầy tin tưởng. Có lẽ bởi thế, mà sau rất nhiều tháng năm, sau rất nhiều biến cố của cuộc sống, Mỹ Linh vẫn xuất hiện với những quan điểm sống không thay đổi.

Gần với Mỹ Linh mới cảm nhận được rằng, trong cuộc sống, chị vô cùng dễ chịu, chị hóm hỉnh trong cách chuyện trò, lạc quan trong cuộc sống. Dường như chị có cách làm tiêu tan nỗi buồn, đó là một cách tự yêu bản thân mình. Bởi vì làm gì có ai không yêu mình, Chỉ là, có thể khác nhau về cách.

Cách của chị là sẽ cố bảo vệ mọi thứ tạo nên mình, thuộc về mình, ở mức an toàn nhất có thể: Gia đình mình, sức khỏe của mình, thời gian của mình, sự tự do, và tất thảy những gì chị tin tưởng…

Mỹ Linh chia sẻ rằng, chị thích được sống trong cảm giác an toàn. Có lẽ bởi thế mà chị chọn ngoại ô Hà Nội để được sống đúng với bản thân mình và bên cạnh người đàn ông chị yêu thương hết mực. Dạo này chị xinh đẹp hơn rất nhiều vì dành nhiều thời gian cho bản thân khi các con dần lớn và đi ra khỏi sự bảo bọc của chị.

Con gái lớn Anna vào tháng 5 tới sẽ tốt nghiệp nhưng sẽ ở lại học thêm và có thể được giữ lại để làm việc cho một studio tại Mỹ. Con trai thứ hai, Anh Duy thì tới đây sẽ du học tại Australia về tài chính. Riêng gái út Mỹ Anh thì vẫn dịu dàng bên bố mẹ với từng khúc ca trên sân khấu.

Niềm vui lớn nhất sau những giờ đi diễn trở về là chị được hít hà cả một khoảng trời mộng mơ, thơm ngát hương hoa ngọc lan với những ánh đèn đầy ảo mộng, được ngồi cùng mâm cơm thơm dẻo với người đàn ông ít nói và lặng lẽ của chị, nhạc sĩ Anh Quân. Một người đàn ông đủ độ hào hoa và tinh tế, đủ sự thông minh để “thống trị” trái tim của nữ Diva và sẻ chia cùng chị từng khoảnh khắc lãng mạn của cuộc sống…

Sinh viên Việt duy nhất hát cùng các bậc thầy opera thế giới

0

Ninh Đức Hoàng Long vừa có vai diễn trong vở opera I Puritani nổi tiếng thế giới đã diễn bốn đêm vào tháng 5 tại Hungary. Anh là sinh viên duy nhất được tham gia cùng nhiều bậc thầy opera thế giới trong vở diễn này.

Ninh Đức Hoàng Long với vai diễn trong vở opera I Puritani tại Hungary – Ảnh: NVCC

Tham gia và quan sát các cuộc thi thanh nhạc quốc tế gần đây, Long nhận thấy ở các nước châu Á như Hàn Quốc, Trung Quốc đã phát triển vượt bậc, sản sinh nhiều giọng ca opera có tố chất tốt và luôn mơ một ngày nào đó Việt Nam cũng sẽ có chỗ đứng nhất định trong hàng ngũ opera thế giới.

Ninh Đức Hoàng Long

I Puritani là tác phẩm cuối cùng của nhà soạn nhạc người Ý Vincenzo Bellini (1801-1835) – một bậc thầy trong thể loại opera bel canto (thể loại chú trọng tới vẻ đẹp, các xử lý đẹp của giọng hát).

Hoàng Long vào vai Sir Bruno Robertson, theo kịch bản gốc đây là một trong những Puritan (những người thanh giáo, một tầng lớp người ở Anh vào những năm thế kỷ 16, 17).

Vai diễn của Long khắc họa cậu sinh viên trẻ tuổi, mọt sách, yêu opera và là fan cuồng của nữ danh ca opera Maria Callas trong lớp học của bà.

Hoàng Long diễn cảnh mở đầu và kết thúc vở diễn, một nhân chứng quan sát những mối quan hệ và sự kiện xảy ra trong lớp học.

Vở diễn quy tụ những tên tuổi opera nổi tiếng: nhạc trưởng Ricardo Frizza người Ý, ngôi sao opera người Anh Jessica Pratt, Francesco người Ý, Markov người Nga…

Hoàng Long chia sẻ qua hai tuần tập luyện cùng mọi người, anh đã học được phong thái biểu diễn, cách giữ giọng để đảm bảo cường độ tập luyện hằng ngày, cách giao tiếp, ứng xử với bạn diễn hay thậm chí là cách ứng xử với khán giả, người hâm mộ…

Năm 2016, Ninh Đức Hoàng Long (sinh năm 1991, Ninh Bình) từng được chú ý khi đoạt giải nhất ở bảng lứa tuổi 18-25 cuộc thi opera quốc tế uy tín mang tên Simandy Jozsep lần thứ 9 tại Hungary.

Với những thành tích đó, Hoàng Long đang là giọng hát được các đài phát thanh truyền hình tại Hungary mời gọi. Hoàng Long nói: “Tôi muốn xây dựng hình ảnh tốt đẹp, thân thiện của con người Việt Nam tới bạn bè Hungary”.

Người đệm piano hay nhất

0

Người nghệ sỹ đó được giới ca sỹ, nhạc sỹ và đồng nghiệp cho là đệm piano hay nhất. Tất nhiên, đó là nói từ trước đến nay, còn từ nay về sau thì không thể, bởi hy vọng sẽ có những người làm việc này hay hơn, như là “con hơn cha, nhà có phúc” vậy. Ông là Hoàng Mãnh – nghệ sỹ đàn piano gần như cả đời làm việc ở Đài Tiếng nói Việt Nam (TNVN). 

Nói đến các nghệ sỹ piano nổi tiếng nhất của Việt Nam, không thể không nhắc đến Hoàng Mãnh bên cạnh những tên tuổi như Thái Thị Liên, Đặng Thái Sơn (con trai Thái Thị Liên), Tôn Nữ Y Lan, Tôn nữ Nguyệt Minh, Hoàng My, Tôn Thất Triêm, Nguyễn Hữu Tuấn…

Độc tấu piano thì tất cả những nghệ sỹ trên đều rất giỏi, không thể nói Hoàng Mãnh là người chơi giỏi nhất. Nhưng riêng về đệm cho hát thì nói ông đứng đầu bảng sẽ không sai, ai cũng thừa nhận, ngay cả những nghệ sỹ piano khác. Nhưng con người tài năng được nhiều công chúng ngưỡng mộ và bè bạn trân trọng này lại hiếm khi xuất hiện trên báo chí.

Dễ hiểu vì ông là người kín đáo, không thích ồn ào, chỉ thầm lặng làm việc. Hàng ngày, ông cũng ít nói, có vẻ sống nội tâm, thuộc “típ” người hướng nội. Nhưng khi đã trò chuyện với ai thì cởi mở, chân thành, luôn gây cho người tiếp xúc cảm giác dễ chịu, thân tình.

Nghệ sĩ Hoàng Mãnh (đầu tiên bên trái) sau một buổi biểu diễn ở nước ngoài.

Tôi từng có một số năm tháng làm phóng viên nghệ thuật ở một tờ báo. Vốn dĩ hâm mộ Hoàng Mãnh từ lâu, biết tin ông đã trở về TP Hồ Chí Minh – quê hương ông, trong một lần vào đây công tác, tôi đã tìm kiếm ông bằng được với ý định sẽ viết một bài báo nói về cuộc đời hoạt động âm nhạc của ông. Nhìn thấy tôi, ông nhận ra ngay, xướng luôn tên tôi và nhắc lại cái lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau tại Đài Tiếng nói Việt Nam. Tôi vô cùng bái phục trí nhớ có thể nói là “siêu” của ông.

Chả là lần đầu tiên ấy vào năm 1966. Lúc này tôi đang là sinh viên khoa Văn Trường Đại học Tổng hợp, sơ tán ở huyện Đại Từ (Thái Nguyên). Một lần tôi về Hà Nội, đến Ban Âm nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam, tìm nhạc sỹ Lê Lôi khi đó là Trưởng ban biên tập để gửi ca khúc mới sáng tác. Nhưng không gặp mà chỉ thấy một người bé nhỏ, có gương mặt đẹp như con gái đang ngồi đánh piano trong phòng. Tôi ngờ ngợ đoán hình như là Hoàng Mãnh (vì hồi học phổ thông, tôi có nhiều dịp xem ông độc tấu piano tại sân khấu Nhà hát Lớn Hà Nội).

Tôi cất lời chào, nói lý do đến đài. Ông hồ hởi tiếp tôi và cho biết tất cả các nhạc sỹ phòng biên tập đều đi sơ tán hết. Ông cũng vừa mới về. Sau khi biết tôi có ý gửi sáng tác, ông nói sẽ chuyển giúp đến tận tay nhạc sỹ Lê Lôi. Ông cũng giở bản nhạc của tôi và dạo trên đàn. Những âm thanh vang lên rất huyền diệu.

Dạo đi dạo lại một lúc, ông nói với tôi: “Bài của em khá đấy. Nhưng nếu được phép, anh xin góp đôi chỗ, được không?”. Tất nhiên là tôi rất vui và lấy làm hân hạnh được ông để tâm. Ông sửa cho tôi mấy chỗ về âm nhạc. Bài hát hay lên rất nhiều sau khi ông đã sửa. Sau đó, Lê Lôi đã chấp nhận. Và đó là bài đầu tiên trong sự nghiệp sáng tác của tôi được Đài sử dụng.

Ngày đó, ngay cả những nhạc sỹ đã nổi tiếng mà có bài thu, phát trên đài thì vô cùng sung sướng vì chưa có tivi và các phương tiện phổ biến tác phẩm khác. Đài phát thanh là nơi duy nhất quảng bá âm nhạc đến với công chúng. Bài đầu được chấp nhận, tôi rất đỗi vui sướng, từ đó hào hứng sáng tác tiếp. Vậy là nhờ Hoàng Mãnh, tôi đã chính thức đi vào con đường sáng tác nhạc mặc dù học ở trường Văn ra. Nhưng lần gặp lại nhau ở Sài Gòn, ông không nhắc đến việc này (mà với tôi là không thể quên). Tôi chủ động nhắc lại kỷ niệm trên thì ông mới nhắc lại cái bài hát lần đó của tôi và còn nhớ rất rõ đã sửa cho tôi như thế nào (từ nốt nào của tôi, ông đổi thành nốt nào).

Tôi nói ông có trí nhớ “siêu” là như thế. Bài hát chẳng có gì đặc biệt của một tác giả còn trẻ, chưa ai biết đến mà khiến ông nhớ sau bao năm thì quả là không dễ bắt gặp.

Lần đó, tôi và Hoàng Mãnh đã nói chuyện rất vui, gợi lại rất nhiều kỷ niệm hồi ông còn ở đài ngoài Hà Nội. Nhưng khi tôi ngỏ ý tìm hiểu thêm về ông để viết bài thì ông lắc đầu: “Anh có gì đâu mà chú viết. Chỉ là người đánh đàn piano, mà chủ yếu là đệm cho các ca sỹ hát chứ cũng không biểu diễn được nhiều tác phẩm độc lập”.

Mặc dù tôi gần như là nằng nặc muốn được đáp ứng, ông cũng vẫn một mực từ chối khiến tôi đành… bất lực! Thảo nào mà tôi chẳng thấy ông lên báo, đài bao giờ mặc dù rất nổi tiếng. Hóa ra ông nổi tiếng bởi tài năng tự thân, “hữu xạ tự nhiên hương” chứ không bởi bất cứ sự đánh bóng nào thêm cho tên tuổi như không ít người làm nghệ thuật khác.

Nghệ sĩ Hoàng Mãnh một lần biểu diễn ở Liên Xô cũ.

Công chúng nào hôm nay đã có tuổi, từng nghe ca nhạc trên Đài Tiếng nói Việt Nam suốt những năm từ hòa bình lập lại (1954) đến ngày đất nước ta được hòa bình, thống nhất (30/4/1975), đặc biệt là những năm tháng chống Mỹ sẽ thấy hầu hết những bài hát hay nhất ở trên đài đều chỉ do một cây đàn piano đệm cho ca sỹ hát bởi không có điều kiện tổ chức đệm bằng dàn nhạc vì cồng kềnh và tốn kém, nhất là trong hoàn cảnh chiến tranh. Và người đệm piano đó chủ yếu là Hoàng Mãnh. Ông có lối đệm khiến người hát rất hào hứng.

Có thể nói ông đã nuôi, nâng cảm xúc thêm cho ca sỹ. Rất nhiều bài chỉ một cây piano của ông đệm còn hiệu quả hơn cũng bài đó do ca sỹ đó hát sau này thu lại với dàn nhạc đệm. Nếu phối khí không giỏi, thiếu sáng tạo thì dàn nhạc tới mấy chục nhạc cụ đệm cho hát vẫn không hay bằng một piano của ông. NSND Quý Dương lúc còn sống đã nói về Hoàng Mãnh: “Mình bước vào phòng thu thanh mà hát với cây đàn do Hoàng Mãnh đệm thì bao giờ hát cũng rất “bốc”, cầm chắc thành công. Anh ấy luôn đệm đàn với tư duy của người sáng tác chứ không chỉ một người đánh đàn”.

Còn NSƯT Quang Phác thì cho biết sở dĩ ông hát thành công bài “Hò biển” được công chúng mến mộ chính là nhờ Hoàng Mãnh đệm đàn. Nghe những âm thanh piano đầu tiên vang lên ở phần nhạc dạo đầu tiên (prélute), ông đã “sởn gai ốc”, cảm thấy như được hút vào bài hát, như được… lên đồng với âm nhạc. Trong phòng thu, ông nhắm tịt mắt lại để hát với sự hình dung về biển qua tiếng đàn của Hoàng Mãnh.

Một đặc điểm của Hoàng Mãnh là có phần đệm viết sẵn của nhạc sỹ sáng tác thì ông tôn trọng đánh theo. Nhưng nếu không có thì ông sáng tạo ngay lúc đệm mà không cần viết sẵn ra giấy. Ông tư duy chẳng khác gì người sáng tác giỏi với việc ấn định công năng hòa thanh chính xác cùng những phần dạo đầu, gian tấu, vĩ thanh hết sức sáng tạo. Chính điều này đã khiến không ít nhạc sỹ đã không tự viết phần đệm mà phó thác tất cả cho Hoàng Mãnh mặc dù họ cũng thành thạo việc phối khí. Nhiều nhạc sỹ nói: “Cứ để cậu ấy đệm theo hứng, sẽ hay hơn mình soạn sẵn phần đệm”.

Đặc điểm tiếng đàn đệm của Hoàng Mãnh là rất phong phú về màu sắc, phong cách. Ông đệm cho kiểu bài hát gì cùng rất hiệu quả từ sục sôi chiến đấu, hừng hực khí thế như các ca khúc: “Không cho chúng nó thoát” (Hoàng Vân), “Phải giết lũ giặc Mỹ” (Trọng Loan)… đến lãng mạn, trữ tình như rất nhiều bài đơn ca. Phải đến hàng nghìn bài hát còn lưu giữ trong kho băng Đài Tiếng nói Việt Nam, trong đó có những bài giá trị nhất do các ca sỹ nổi tiếng nhất thể hiện có giá trị vĩnh hằng đã do Hoàng Mãnh đệm đàn.

Ông có tên khai sinh là Võ Đức Quý, sinh tại Sài Gòn vào năm 1933, con trai nhạc sỹ Võ Đức Thu nổi tiếng một thời. Hoàng Mãnh sớm giác ngộ cách mạng, hoạt động văn nghệ phục vụ cách mạng từ lúc còn tuổi thiếu niên với cây đàn áccoócđêông đệm cho Quốc Hương hát tại rất nhiều nơi ở Nam Bộ thời kỳ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 và trong kháng chiến chống Pháp.

Hòa bình lập lại, ông tập kết ra Bắc rồi làm việc ở Đài Tiếng nói Việt Nam. Ông có dịp học khóa đại học piano đầu tiên ở Trường Âm nhạc Việt Nam với người thầy là NSND Thái Thị Liên. Học xong, lại trở về Đài. Sau 30/4/1975, ông về quê là TP Hồ Chí Minh tiếp tục làm việc đến lúc nghỉ hưu.

Ông mất năm 2015, hưởng thọ 83 tuổi. Năm 1984, ông được phong danh hiệu NSƯT đợt đầu tiên. Ông đã mất nhưng tiếng đàn của ông vẫn còn luôn vang trên làn sóng, sống mãi trong tâm khảm nhiều thế hệ công chúng.

Khánh Linh – ‘Họa mi’ hóa thân

0

1. “Ngài” là một album nhỏ nhắn, chỉ gồm 5 ca khúc do nhạc sỹ Vũ Minh Tâm sáng tác và hòa âm cùng Lê Thanh Tâm, Dương Cầm, Minh Hoàng… Màu sắc album trải dài từ pop đến rock, với những khoảnh khắc “thoát” khỏi vỏ bọc trước đây, mang đến sự mới mẻ nhưng vẫn là căn cốt con người nghệ sỹ của Khánh Linh.

Ở những lần nghe đầu tiên, “Ngài” là một thứ gì đó vừa quen vừa lạ. Đó là một Khánh Linh với giọng hát cao vút, an lành trong những bản nhạc mang phong cách pop nhẹ nhàng trong “Về nhà,” “Mùa hoa trở lại”nhưng cũng có gì đó rất khác biệt, đầy biến báo trong “Về với Đông,” “Gió bay ngang trời,” “Ngài.” Chính vì thế, nữ ca sỹ có thể làm hài lòng những khán giả lâu năm của mình đồng thời cũng mở rộng thêm những đối tượng khán giả mới.

Trong đó, “Mùa hoa trở lại”  “Về nhà” là hai ca khúc đánh dấu sự trở lại của Khánh Linh sau khoảng thời gian gián đoạn khi vô tình “chạm” miền âm nhạc của Vũ Minh Tâm.

Không gặp nhau một lần nào trong suốt quá trình sản xuất album, Khánh Linh và Vũ Minh Tâm không chỉ có với nhau một sản phẩm âm nhạc “có đầu có cuối” mà “Ngài” cho thấy sự đồng điệu về tâm hồn, và quá trình chuyển tiếp, “hóa thân” của cả hai.

Điều đó thể hiện ngay trong cách biên tập, đặt để 5 ca khúc trong album mang nhiều chủ ý của Khánh Linh. Không phải “Ngài”  “Gió bay ngang trời” mở đầu album mà thay vào đó là “Về nhà,” “Mùa hoa trở lại,” “Về với Đông” rồi “Gió bay ngang trời” và khép lại là “Ngài.”

(Nhân vật cung cấp)

Dẫu chỉ 5 ca khúc, được cho là hơi mỏng so với một sản phẩm thu âm tuy nhiên sự đặt để có chủ ý lại làm nên “concept” về tư tưởng và tinh thần, kiến tạo không gian và thời gian. Cách sắp xếp này vô tình tạo nên một quá trình “hóa thân” lộng lẫy và bất ngờ về âm nhạc cho cả album. Cảm xúc của người nghe từng chút một được lay động, khơi mở và bị cuốn vào “cơn lốc” âm thanh từ những run rẩy, êm đềm đến mãnh liệt, kịch tính.

Ca khúc “hoàn chỉnh” và đưa lại nhiều hứng thú nhất trong album chính là “Về với Đông.” Khi “Về với Đông” sẵn sàng để đến với khán giả, nhạc sỹ Vũ Minh Tâm đã chọn Khánh Linh là người thể hiện. Tuy nhiên, Nhật Thuỷ và sau đó là ca sỹ Hồng Nhung mới là những ca sỹ đầu tiên hát ca khúc này.

Cách sắp xếp như tạo nên một quá trình “hóa thân” lộng lẫy và bất ngờ về âm nhạc cho cả album. Cảm xúc của người nghe từng chút một được lay động, khơi mở và bị cuốn vào “cơn lốc” âm thanh.

“Về với Đông” trở lại với Khánh Linh, bài hát như được tái sinh khi mang một màu sắc mới và khác biệt. Với bản phối mang hơi hướng symphony rock của Lê Thanh Tâm, giọng hát “hoạ mi” thực sự bộc lộ cá tính và thẩm mỹ riêng khi liều lĩnh mang đến tinh thần mới, màu sắc mới. Với bản phối này và giọng hát Khánh Linh, “Về với Đông” không còn những hoài nhớ, ảm đạm mà trở nên ấm áp, ngầu hơn, hứng khởi hơn rất nhiều. Khánh Linh cũng cho khán giả thấy được rằng, giọng hát trong trẻo của cô vẫn xử lý “ngon lành” khi hát rock.

Tuy nhiên, bài hát hay nhất và thể hiện được tình thần “hóa thân”phải kế đến “Ngài.” Nó thể hiện tất cả con người Khánh Linh ở thời điểm hiện tại, đầy năng lượng. Nó khác với tất cả những bản nhạc trước đây nữ ca sỹ đã từng thể hiện. Nó sinh ra dường như là để cho riêng giọng hát Khánh Linh. Một chỉ dấu đầy thuyết phục về một cuộc hóa thân lộng lẫy của “họa mi” nhạc Việt.

(Nhân vật cung cấp)

2. Sự mới mẻ (dù của riêng Khánh Linh) trong lần trở lại chính là ở tinh thần của cả đĩa nhạc, như trong bài hát Ngài cô hát đầy náo nức, say mê: “Tôi nay phiêu du khắp trời, rong chơi ngân nga khúc nhạc, ánh mắt hiền hoà, tiếng hát thật thà.”

Có thể nói, với album “Ngài,” đây là lần thứ 3 bước vào âm nhạc của Khánh Linh. Cách đây hơn thập kỷ, cô bước vào âm nhạc với những bản pop “hit” nhẹ nhàng như “Cô Tấm Ngày Nay, Tháng Tư về, Ban Mai Xanh, Hoạ Mi Hót Trong Mưa”…

Lần thứ 2, cô bước vào một miền âm nhạc khác chính là dự án “Nhật Thực 2” (hợp tác cùng nhạc sỹ Ngọc Đại, Đỗ Bảo). Không ít người cho rằng, “Nhật Thực 2” là chỉ phần nối dài thành công của “Nhật Thực 1” với cái bóng quá lớn của người thể hiện Hà Trần. Tuy nhiên, với người viết bài, dưới góc độ cá nhân Khánh Linh – đó là một lần bước vào cánh cửa âm nhạc khá ấn tượng.

Khánh Linh tạo được nét riêng của mình khi thể hiện các bài hát “Đợi Chờ,” “Tắm Đêm,” “Hết Duyên” cũng như song ca ăn ý với Tùng Dương trong “Cỏ Trắng”  “Độc Thoại Tháng Giêng.” Khánh Linh là Khánh Linh trong “Nhật Thực 2,” và vì thế, cô là một tiếng nói riêng.

Và với album “Ngài” vừa mới ra mắt, dù với một số người nó giống một mini album nhưng sự lột xác cả về âm nhạc và hình ảnh đủ xác tính Khánh Linh đang đập cánh vào miền âm nhạc mới, tạm gọi là cánh cửa âm nhạc thứ 3 của cô.

Ở đó, cô không chối bỏ những gì đã tạo nên tên tuổi của mình nhưng người nghe như được chiêm ngưỡng một bộ cánh mới, nhiều màu sắc hơn, lộng lẫy hơn. Nó giống như một một quá trình chuyển tiếp, hóa thân, đón nhận những thanh âm, những năng lượng mới, được truyền cảm hứng từ chính cuộc sống và tư duy âm nhạc mới mẻ và tích cực.

3. Một câu hỏi được đặt ra: Khánh Linh đã thực sự “chín”? Rất khó trả lời, khi một ca sỹ bước lên đỉnh cao nghĩa là họ sẽ phải xuống sườn. Hơn ai hết, Khánh Linh hiểu rõ quy luật này và cô “chống đối” quyết liệt với những cú đập cánh chậm rãi và chắc chắn. Album “Ngài” – vì thế, nó nhỏ nhắn nhưng vừa đủ.

Nhạc sỹ Vũ Minh Tâm, tác giả toàn bộ ca khúc và đồng sản xuất của album cũng đã nói, album ít ca khúc nhưng lại nhiều ý tứ, và “đầy đặn” như nó vốn có. Với riêng Khánh Linh, ở thì hiện tại, cô hoàn toàn chủ động với âm nhạc của mình. Cô muốn thực hiện những gì cô muốn làm với âm nhạc trong đĩa nhạc này.

Khánh Linh hiểu rõ quy luật nghề hát và cô “chống đối” quyết liệt với những cú đập cánh chậm rãi và chắc chắn.

Như đã nói, “Ngài” của Khánh Linh là một album “đẹp.” Giọng hát, hoà thanh và ca từ, tất cả đều đẹp. Nghệ thuật chỉ đẹp thôi đôi khi chưa đủ nên Khánh Linh đã từ tốn bỏ thêm chút mới mẻ trong lần trở lại này. Gọi là “từ tốn” bởi Khánh Linh vẫn đang “giấu” đi nhiều thứ, vẻ như sau Ngài cô đang ấp ủ và để dành những gì tinh túy nhất, lộng lẫy nhất cho một sản phẩm thu âm mới.

Quá sớm để có thể nói Khánh Linh sẽ làm gì với album tiếp theo. Tuy nhiên, với cảm xúc và năng lượng đầy hào hứng mà nữ ca sỹ thể hiện ra bên ngoài, đó chắc chắn là một đĩa nhạc hấp dẫn.

Đặc biệt, đĩa nhạc này là lần chính thức hợp tác giữa cô và “phù thuỷ âm thanh” Võ Thiện Thanh. Album này dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2018. Nghệ thuật chỉ đẹp thôi chưa đủ, thì đúng là như vậy, nhưng trước một giọng hát đẹp vào hàng của hiếm như Khánh Linh thì luôn khiến chúng ta muốn chờ đợi./.

(Nhân vật cung cấp)

“Đường chiều” – Bộ phim tài liệu về hành trình 60 năm trở về quê hương của Khánh Ly

0

“Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng, tấm lòng cho mọi người, cho mình và cho quê hương…”. Với mục đích trở về Việt Nam sau 60 năm trên đất khách, danh ca Khánh Ly muốn đem tấm lòng của mình và ước nguyện của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gửi gắm tình cảm, sự yêu thương bằng chương trình “Vòng tay nhân ái” trải dài trên mảnh đất hình chữ S.

Nằm trong chuỗi sự kiện “Khánh Ly – 55 năm hát tình ca” là những thước phim tài liệu mang tên “Đường chiều” nói về cuộc hành trình trong suốt 3 năm, Khánh Ly trở về đất nước, hát và đi từ thiện tại Việt Nam. Bà chọn quê hương Việt Nam là điểm dừng chân cuối cùng trong cuộc đời, tiếc nuối một khung trời, quãng đời đã vụt mất. Một cuộc hành trình tiếp diễn về người đi kể chuyện rong, kể về cuộc đời của bà, cuộc đời của người khác, chiến tranh, một thời đã đi qua mảnh đất này.

Tìm lại cho mình một Hà Nội, đúng nghĩa

60 năm là quãng thời gian rất dài với con người xa xứ. Tất cả từ con người đến cảnh vật đều thay đổi, nhưng trong lòng bà mong tìm lại được một Hà Nội xưa, cổ. Một Hà Nội phải có hồn, có thơ, có nhạc, dịu dàng, đẹp và trong sáng như nước mưa, nước hồ. Rời Hà Nội 60 năm, không nhớ được nhiều những hình ảnh về Hà Nội mà bà chỉ biết được mùa thu Hà Nội qua sáng tác của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, qua văn thơ của các tác giả khác. Nhưng sau này chỉ mơ tưởng đến mùa thu Hà Nội.

Từ năm 14 tuổi đến bây giờ mới được biết đến mùa thu Hà Nội, bản thân bà có một ao ước là quay trở về ngôi nhà cũ đã từng ở gõ cửa và bố mẹ ra đón thì hạnh phúc biết bao. Nhưng điều bất ngờ hơn cả, khi trở về đó, bà được những người quen hồi nhỏ nhận ra, tay bắt mặt mừng, xúc động nghẹn ngào. Họ nhớ về một cô bé tên Mai, hát hay, mạnh bạo và đôi mắt rất đẹp. Những ký ức trong bà ùa về từ thời 9 tuổi, những người bạn thân, tất cả, tất thảy cho bà sự thân quen về tình nghĩa của người Hà Nội.

Một điều khẳng định của bà rằng: “Người mang tên Khánh Ly này, sẽ làm điều lớn lao dành cho Hà Nội mà họ sẽ thấy được rằng tình yêu dành cho người này xứng đáng”. Nhớ những điều sắp sửa làm cho Hà Nội, bà tập luyện không biết mệt mỏi, “với những bài hát, câu chuyện khiến cho mọi người xúc động rơi lệ thì xin những giọt nước mắt đó là của niềm hạnh phúc”, bà chẳng nghĩ cho bản thân, chỉ nghĩ cho đời và cho người.

Trong chuyến trở về lần này, đánh thức trái tim của nhiều người, bởi vì ai trong chúng ta cũng có lúc ra đi và lúc trở về. Trở lại nơi mình đã bắt đầu như thế, đơn giản thôi nhưng tạo cho bản thân nhiều cảm xúc, thấy kỷ niệm qua những góc phố, con đường mình đi qua.

Điều tiếc nuối và ngậm ngùi ở Đà Lạt

Đà Lạt ghi dấu ấn trong bà khi lần đầu tiên gặp nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào năm 1964 ở nơi đây. “Không có ở nơi nào ở Đà Lạt mà tôi không đặt chân đến, không có tiệm ăn nào ở Đà Lạt mà tôi không nếm qua”, lần trở lại lần này bà vẫn đến những quán xưa, dù Đà Lạt có thay đổi nhưng đối với bà cái hồn của Đà Lạt không thay đổi. Nơi bà lần đầu gặp nhạc sĩ Trịnh Công Sơn để nên duyên với ông, để làm nên một Khánh Ly với giọng hát đi vào lòng người. Một người lưu lạc từ sông Hồng và một người lưu lạc từ sông Hương để gặp nhau, rõ ràng đây là duyên trời định. Những cái gì đầu tiên là những cái mà người ta không bao giờ có thể quên được trong đời.

“Đà Lạt đối với tôi là nhất, Đà Lạt như chỗ ẩn náu thần tiên, người Đà Lạt thân thiết, yêu thương tôi, nhưng sau cùng tôi cũng phải cắn răng bỏ Đà Lạt mà đi để bước vào một định mệnh khác, một hạnh phúc khác, một bất hạnh khác. Khi mà bỏ lại tất cả ở đất Đà Lạt, tôi trở về Sài Gòn với hai bàn tay trắng, đó mới là nơi đón nhận tất cả những tinh túy của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, hoàn toàn mới, hoàn toàn lạ, không phải là ông Trịnh Công Sơn gặp ngày xưa”.

Trở lại Sài Gòn – Nơi đầu tiên hát nhạc Trịnh Công Sơn

Mở màn cho sự nghiệp ca hát của bà là lời mời do nhạc sĩ Trịnh Công Sơn khởi xướng với dàn âm thanh rất tệ, hát trên bãi đất trống và một lượng người xem rất đông. Chính ngay sau ngày hôm đó, danh tiếng của cô bé tên Khánh Ly từ Đà Lạt xuống và một anh nhạc sĩ nghèo với cây đàn ghi ta vang vọng khắp Sài Gòn. Nếu không có Trịnh Công Sơn thì không có Khánh Ly, nhờ là “cái bóng” của ông, được ông mang đi khắp nơi trình diễn, bà được nhiều người biết đến. Vừa rồi, bà có một đêm nhạc ở đây, điều bà nhớ nhất là có một vị khán giả nói chen trong đám đông: “Cô ơi, cô đừng chết”. Một câu nói đó, đối với bà nó nặng hơn một trái núi, sâu hơn cả biển, điều đó khó lắm! Nếu được chết trên sân khấu là điều hạnh phúc của người cầm ca.

Một thứ tình lạ thường trói buộc Khánh Ly với Huế

Đây được coi là khoảng thời gian dễ thương nhất, ở Huế bà không quen ai cả, chỉ biết mỗi Trịnh Công Sơn. Chính tại nơi đây, ông đã ngồi trên lan can của căn nhà ở phố Cam, với hàng cây long não sáng tác bài “Diễm xưa”. Dẫu 50 năm hát ca khúc “Diễm xưa”, đối với bà lần nào hát cũng là lần đầu tiên. “Tôi chỉ thật sự hạnh phúc khi hát nhạc Trịnh Công Sơn, nếu có kiếp sau, tôi cũng xin gặp lại anh như đã gặp ở Đà Lạt, ở Việt Nam, ở trong đời”. Một thứ tình cảm thiêng liêng cao quý giữa bà và cố nhạc sĩ đã qua đời. Trong lần trở lại đất nước, bà không quên đến thăm nhà và viếng mộ người anh yêu quý của mình. “Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt, trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt rọi suốt trăm năm một cõi đi về. Dẫu cho mọi điều có thể bị thời gian vùi xóa thì lòng nhân còn ở lại, và sự nhân ái đó, lan tỏa từ người nhạc sĩ này. Khi chúng ta muốn hát hãy tìm đến những ca khúc của Trịnh Công Sơn để thấy cuộc đời đẹp hơn, đáng sống hơn và bình an hơn, chào anh!”. Đây là những lời bộc bạch của bà thốt lên khi đứng trước mộ nhạc sĩ.

Tiếp nối ước nguyện của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn

Một người phụ nữ nhỏ bé, dùng giọng ca, tiếng hát góp vui cho đời và mang đến niềm vui cho người. Thật khâm phục bà, ở cái tuổi xưa nay hiếm như vậy, nhưng bà vẫn dùng sức lực để làm việc thiện, đem đến những con đường cho bà con ở tỉnh Bến Tre, đến từng bệnh viện, từng trại mồ côi. Trong 3 năm, bà chia sẻ được rất nhiều, tìm được hạnh phúc và ý nghĩa cuộc đời mình qua những chuyến đi, những buổi gặp gỡ, những món quà từ thiện. “Chính những người quanh mình, cho mình sức sống, họ chia sẻ với mình, họ giúp đỡ mình và họ tiếp sức mình cho đời sống này. Ở tuổi này rồi, mình chưa phải là người thừa, còn có thể làm được dẫu là việc nhỏ – nó nhỏ như là hạt cát, nhưng mà hạt cát hay làm cho người ta chảy nước mắt”.

Lúc nào bà cũng ôm quê hương Việt Nam ở trong tim, dùng sức lực nhỏ bé để góp thêm nhiều nhiều niềm vui cho những người khó khăn. Một người phụ nữ với tấm lòng nhân ái. Trả nợ đời – trả nợ ân tình.

Lúc nào bà cũng ôm quê hương Việt Nam ở trong tim, dùng sức lực nhỏ bé để góp thêm nhiều nhiều niềm vui cho những người khó khăn. Một người phụ nữ với tấm lòng nhân ái. Trả nợ đời – trả nợ ân tình.

Ca sĩ Mỹ Linh nồng nàn “Đợi những ngày xuân”

0

Tết đoàn viên được tái hiện trong MV mới “Đợi những ngày Xuân” vừa được ca sĩ Mỹ Linh gửi đến công chúng trong những ngày cận Tết Nguyên đán.

12 năm sau khi cho ra mắt album “Chat với Moazart 1”, ca sĩ Mỹ Linh cùng ban nhạc Anh Em đã cho ra mắt album “Chat với Mozart 2”, với các ca khúc mới: “Đợi những ngày xuân” (Franz Lizst, 1811-1886, Lời: Mỹ Linh; Phối khí: Thanh Bình), “Khi mùa đông quay về” Johann Sebastian Bach, 1685-1750, Lời: Mỹ Linh; Phối khí: Anh Quân), “Nắng sớm” (Gabriel Fauré, 1845-1924, Lời: Dương Thụ; Phối khí: Anh Quân; Mỹ Linh song ca cùng Mỹ Anh), “Khúc nhạc buồn” (Frédéric Chopin, 1810-1849, Lời: Dương Thụ; Phối khí: Thanh Bình), “Ngay phút giây này” (Achille-Claude Debussy, 1862-1918, Lời: Mỹ Linh, Phối khí: Anh Quân), “Bài ca tự do” (Edward Elgar, 1857-1934, Lời: Mỹ Linh, Rap: Hà Lê, Phối khí: Anh Quân)….

Ca sĩ Mỹ Linh nồng nàn Đợi những ngày xuân - Ảnh 1.

Khung cảnh Tết quê trong MV mới “Đợi những ngày xuân” của ca sĩ Mỹ Linh

Gần một tháng sau khi ra mắt album “Chat với Mozart 2”, Mỹ Linh đã chính thức giới thiệu đến khán giả MV đầu tiên của album có tên gọi: “Đợi những ngày xuân”.

Trong MV này, Mỹ Linh như một người dẫn chuyện, như một nhân chứng đi dọc chiều dài của cuộc tình. Từ lúc trẻ cho tới những cái Tết xa xứ nơi tuyết trắng và ngày trở về được vùng vẫy trong dòng sông quê mẹ của người đàn ông đã lớn tuổi. Đó hẳn nhiên là cảm giác có thật và hoàn toàn có thể tìm thấy ở một thế hệ nhất định đã dành cả thanh xuân để tu nghiệp nước ngoài.

Ca sĩ Mỹ Linh nồng nàn Đợi những ngày xuân - Ảnh 2.

Tết quê bên nồi bánh Chưng chuẩn bị đón giao thừa

Ca khúc “Đợi những ngày xuân” được Diva Mỹ Linh viết lời trên nền nhạc của bản nhạc “Liebesträume” (Dream of love) của nhà soạn nhạc người Đức Franz Liszt. Chia sẻ về quãng thời gian ngồi viết lời cho ca khúc này, nữ ca sĩ Mỹ Linh tâm sự: “Đó thật sự là một áp lực, thật sự là vậy. Khi ngồi viết, những hình ảnh gắn liền với đồng quê Bắc Bộ cứ hiện lên trong đầu tôi, những hình ảnh Tết truyền thống cứ nhắc nhớ tôi về một thời thơ ấu tươi đẹp. Và cả hình ảnh Anna nữa. Tôi viết lời ca khúc này như để danh tặng cho chính mình với những kí ức đẹp đẽ về một thời đã qua của lứa tuổi tôi, dành tặng con gái tôi với những cái Tết tha hương đã và sẽ đón và tặng cả những ai đang mong ngóng Tết sẽ được quay về để sum họp đầm ấm cùng gia đình bên nồi bánh chưng, bên mâm cỗ Giao thừa, bên bàn trà ngày mùng 1 Tết”.

Ký ức Tết xa xứ được tái hiện cùng với Tết quê Việt ấm áp, đoàn viên lại rất hợp với giai điệu của bản nhạc của nhạc sĩ người Đức. Sự hoà trộn giữa một bên truyền thống, “rất Việt Nam” với những hình ảnh quen thuộc qua những giai điệu đẹp của nền âm nhạc phương Tây đã mang lại những xúc cảm dịu dàng đầy không khí Xuân cho người nghe.

Ca sĩ Mỹ Linh nồng nàn Đợi những ngày xuân - Ảnh 3.

Với ý tưởng về Tết sum vầy, đạo diễn Đào Duy Phúc đã kể một câu chuyện bằng những hình ảnh thân thuộc, luôn đem lại cảm giác nồng hậu, ấm áp với người Việt trong mỗi dịp Tết đến Xuân về.

Đạo diễn Đào Duy Phúc – người đã được biết đến với các tác phẩm điện ảnh như: “Chiến dịch trái tim bên phải”; “2 trong 1”; “Sinh mệnh”,  “Hoài vũ trắng” – cho biết: “Đầu tiên, sau khi tiếp nhận bản nhạc, tôi và vợ đã bật lên trong đầu về hình ảnh Tết tha hương nhưng nếu như chỉ khai thác một hình ảnh như vậy thì sẽ rất cũ bởi rõ ràng chúng ta thấy chủ đề đó được khai thác khá nhiều. Để câu chuyện được hấp dẫn hơn, chúng tôi đã quyết định đặt các tuyến nhân vật vào xuyên không. Như bạn thấy đó, trên các trang báo truyền thông mỗi dịp Tết về là những hình ảnh Tết truyền thống như nhắc nhớ người trẻ cũng như để những người lớn hàn huyên về một thời đã qua cũng là một hình thức của xuyên không trong chính tâm tưởng chúng ta. Khi mang ý tưởng đó bàn với Mỹ Linh thì ngay lập tức nhận được sự đồng tình của ca sĩ và chúng tôi bắt tay vào làm ngay”.

Ca sĩ Mỹ Linh nồng nàn Đợi những ngày xuân - Ảnh 4.

Mỹ Linh chứng tỏ đẳng cấp Di va trong cách xử lý tinh tế phần lời ca khúc

Câu chuyện tình của cặp đôi từ trẻ đến lúc xế tuổi, về hạnh phúc, về chia cắt để rồi đoàn tụ. Câu chuyện được ê-kíp kể chi tiết, cầu kì bằng từng khuôn hình đẹp như những bức tranh Tết xứ Bắc. Những hình ảnh lung linh về triền đê đầy cỏ dại, cây đa, bến nước, ngôi nhà cổ, sân giếng cũ nơi những người dân quê ngồi rửa lá dong gói bánh chưng đón Tết… gợi nhiều cảm xúc với giọng hát ngọt ngào của Mỹ Linh trong “Đợi những ngày xuân”.

Ca sĩ Mỹ Linh nồng nàn Đợi những ngày xuân - Ảnh 5.

MV “Đợi những ngày xuân” đẹp mượt mà rộn ràng không khí Tết

Nặng lòng với Hà Nội dấu yêu

0
Nặng lòng với Hà Nội dấu yêu

Hà Nội – mảnh đất ngàn năm văn hiến đã đi vào nhiều ca khúc bất hủ. Những giai điệu được viết nên bởi những trái tim yêu Hà Nội đến thiết tha, đã đi vào lòng người như những giai điệu đẹp nhất của âm nhạc. Nhân xuân mới Mậu Tuất các nhạc sĩ: Phú Quang, Nguyễn Đức Cường và ca sĩ Đinh Mạnh Ninh đã dành một cuộc trao đổi về những tháng năm nặng tình với Thủ đô.

Nhạc sĩ Phú Quang:

Nếu không có Hà Nội thì không có âm nhạc của tôi

Bên ly trà nóng trong tiết se lạnh của Hà Nội, nhạc sĩ Phú Quang trầm ngâm: Có lần nhà báo hỏi tôi có thật là người Hà Nội không mà sáng tác nhiều bài về Hà Nội thế (cười). Tôi trả lời rằng, nhà tôi có 6,7 đời là người Hà Nội. Khi kháng chiến chống Pháp nổ ra, gia đình tôi tản cư lên Phú Thọ và Phú Quang được sinh ra ở đó. Ngày 10/10/1954, khi Hà Nội được giải phóng, đoàn quân tiến về từ năm cửa ô, tôi tròn 5 tuổi, được theo cha mẹ trở về Hà Nội. Còn nhiều người bảo tôi quê Hải Phòng cũng có lý do của nó.

Vợ đầu tiên của tôi là người Hải Phòng nên tôi có tham gia Hội đồng hương Hải Phòng. Tôi thường đùa bảo tham gia cho vui thôi chứ không phải người Hải Phòng! Tôi không phân biệt người Hà Nội gốc hay không. Với tôi, những người đã sống vài năm ở Hà Nội, yêu nó và dâng hiến cho nó thì là người Hà Nội được rồi.

nang long voi ha noi dau yeu

Hôm đó, nhà thơ Phan Vũ có đến xem và đưa cho tôi đọc bài thơ “Hà Nội phố” ông mới sáng tác gồm 23 khổ, nhưng tôi chỉ lấy 4 câu trong đó để sáng tác nên “Em ơi, Hà Nội phố”. Tôi có bảo với nhà thơ Phan Vũ: “Anh ạ, em có linh cảm sẽ có một bài hát rất hay về Hà Nội”. Hai ngày sau, sau khi viết xong, nhà thơ Phan Vũ đến nghe và thốt lên: “Ôi Quang làm bài thơ của anh sang trọng hơn, anh không nghĩ là hấp dẫn thế”.Vì mưu sinh và thử chính mình, năm 1985, tôi chuyển vào Sài Gòn sinh sống và làm việc. Hồi đó, các tụ điểm âm nhạc ngoài trời chỉ là một bãi rộng và mọi người đứng chen chúc ở dưới nghe nhạc. Tôi là người đầu tiên cải cách âm nhạc ngoài trời, có ghế ngồi đàng hoàng, không gian lịch sự hơn, khán giả rất thích.

Tôi chưa bao giờ hết yêu Hà Nội cả. Nếu không có Hà Nội thì không có âm nhạc của Phú Quang ngày hôm nay. Lý do tôi vào Thành phố Hồ Chí Minh sinh sống và làm việc hơi đặc biệt, không tiện nói ra. Người Sài Gòn thực tế, không mất thì giờ vào những chuyện dưa cà, dưa muối. Còn người miền Bắc, nhất người Hà Nội thì sống tình cảm hơn.

Trong khoảng thời gian tôi ở Sài Gòn, tôi đã rất nhớ nhà, nhớ Hà Nội đến quay quắt. Trong giai đoạn này, có rất nhiều sáng tác hay về Hà Nội như “Em ơi Hà Nội phố”, “Im lặng đêm Hà Nội”, “Lãng đãng chiều đông Hà Nội”, “Hà Nội ngày trở về”, “Chiều phủ Tây Hồ”, “Nỗi nhớ mùa đông”, “Khúc mùa thu”, “Mơ về nơi xa lắm”, “Tôi muốn mang hồ Gươm đi”… đều ra đời trong khoảng thời gian này. Đúng là phải cảm ơn Sài Gòn rất nhiều, nhờ những năm tháng đó mà tôi đã có nhiều sáng tác như vậy.

Tôi làm show từ năm 1987, năm nào cũng có 2 show, 1 show ở Sài Gòn, 1 show ở Hà Nội. Từ hồi ra Hà Nội thì năm nào cũng vài show, mỗi show có khi 4 đêm diễn. Giá vé thường khá cao, thậm chí phe vé họ bán lên 18 triệu đồng/cặp mà vẫn có người mua. Không dễ gì khán giả bỏ ra số tiền lớn như vậy chỉ để xem một đêm nhạc. Nhiều người hỏi, ông làm thế nào bán vé nhanh thế. Nhiều nghệ sĩ chật vật cũng chỉ bán được 1/3 vé, tôi làm những 4 đêm thì đều cháy vé. Tôi thấy bản thân mình may mắn khi được khán giả thương, quý nên người ta đến với mình.

Nhiều khán giả ở tận Sài Gòn, miền Trung, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên… cứ biết đêm nhạc Phú Quang là mua vé không bỏ sót buổi nào. Nhiều đêm diễn phải ra chào khán giả đến mấy lần vì họ không chịu về. Nghệ thuật rất công bằng, nếu anh nói hay nhưng chỉ cần diễn sau ba phút là có biết hay hay không. Tôi có nguyên tắc, làm kinh doanh hay làm nghệ thuật thì đều phải tốt, trân trọng khán giả thì khán giả sẽ tìm đến với mình.

Nhạc sĩ Nguyễn Đức Cường:

Tôi hạnh phúc khi được ở Hà Nội

Là tác giả của ca khúc khá nổi tiếng“Nồng nàn Hà Nội” nhạc sĩ trẻ Nguyễn Đức Cường tâm sự: Sự gần gũi thân quen khiến bất cứ ai cũng có những xúc cảm riêng. Mỗi người một cách yêu, cách cảm nhận nhưng tựu chung đó là những tình cảm khi nhắc đến Hà Nội. Tôi tin ai đó đã thăm nơi đây cũng giữ cho mình ít nhiều những kỉ niệm. Quãng thời gian còn là sinh viên Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, đã cho tôi biết bao kỷ niệm về nơi đây.

Được chơi nhạc cùng bạn bè, một vài mối tình qua tay, có những dư vị lãng mạn tuổi đôi mươi… tất cả là tuổi trẻ cùng với thành phố này, những con đường, quán quen, bốn mùa đều có những nét đặc trưng thú vị rất riêng. Chừng đó là lý do vì sao “Nồng Nàn Hà Nội” ra đời.

nang long voi ha noi dau yeu

Ngày đó cảm nhận thấy gì là viết nấy, say mê và tự do trong âm nhạc. Cái nhìn của người trẻ yêu Hà Nội hóa ra lại gặp được sự đồng cảm từ phía khán giả. Tôi vẫn luôn nghĩ mình may mắn, các ca khúc hay về Hà Nội nhiều lắm, tôi cũng không thể quyết định số phận đứa con tinh thần của mình được.

Nhưng rồi tác phẩm được công chúng đón nhận, tôi nghĩ đó là những điều tuyệt vời mà âm nhạc mang lại. Thực ra, có nhiều ca sĩ, nhạc sĩ đã Nam tiến với mong muốn thành công hơn nữa nhưng vì tôi hạnh phúc khi ở nơi đây nên tôi không dứt Hà Nội ra đi. Hơn nữa, ở nơi này, mảnh đất này tôi được làm điều mình muốn, ăn món mình thích, có thời gian cho gia đình, cho tình yêu… tôi không dễ rời xa những điều khiến mình vui như vậy (cười).

Gần đây, khi thực hiện vai trò sản xuất tôi không còn nhiều thời gian cho những việc khác. Tôi làm việc trong phòng thu với những công việc xử lý track nhạc, hậu kì, master… và tất nhiên để có một sản phẩm nghiêm túc tôi sẽ phải đầu tư thời gian và chất xám tương xứng.

Với một môi trường âm nhạc hội nhập và dễ bị ảnh hưởng như bây giờ, phong cách riêng trong âm nhạc quả là điều đáng trân trọng, tôi vẫn luôn làm việc chăm chỉ và cố gắng cho ra đời những sản phẩm âm nhạc không bị hòa tan với những giá trị ảo. Sắp tới tôi sẽ ra mắt album tuyển chọn những tác phẩm mới, hy vọng sẽ sớm ra mắt khán giả trong một ngày gần đây.

Ca sĩ Đinh Mạnh Ninh:

Hà Nội cho tôi can đảm để đi tìm cái dị biệt của mình

Với Mạnh Ninh, ca sĩ trẻ hát nhiều bài hát về Hà Nội thì trải lòng: Vẻ đẹp của Hà Nội thì chắc chúng ta chẳng cần bàn nhiều. Tôi không nghĩ rằng Hà Nội chỉ đẹp ở một khía cạnh với tâm hồn những người yêu Thủ đô.

Bạn có thể sinh ra, lớn lên ở đây, cũng có thể không phải, bạn có thể dành cả tuổi thơ của mình rong ruổi theo những con phố đầy me, đầy sấu, cũng có thể chỉ dành ra một góc nhỏ thanh xuân của mình để đi theo cô gái nào đó trong hương hoa sữa mùa thu- để rồi chỉ cần một thoáng lặng đi, bỗng nhận ra một góc tâm hồn mình đã gắng liền với Hà Nội.

nang long voi ha noi dau yeu

Đó có thể là những con phố tuổi trẻ, những căn gác luôn vặn mình kẽo kẹt mỗi lúc có người qua, có thể là một cái nắm tay chạm khẽ bước đi bên nhau trong một chiều đầy gió, cũng có thể là ly bia cuối cùng trước khi bạn nhận ra mình đã say trong một buổi tối cuối tuần trên khu phố cổ…

Đối với tôi, Hà Nội hiện rõ nhất trong tâm trí mình những năm đầu tiên khi tôi học Đại học- cũng là những năm tháng trải nghiệm cuộc sống tự lập đầu tiên của tôi… Nó gắn liền với những niềm vui, sự vô tư, cũng gắn với bao lo toan vất vả… Những gì tôi có được sau những năm tháng ấy, là những trải nghiệm xây dựng lên cốt cách con người tôi- là tình yêu, tình bạn… Tôi thật thà với điều đó, thật thà với chính mình, cũng như cuộc sống thật thà với tôi, giản dị như những gì tôi thấy, tôi nghe bên ly trà đá. Nó dân dã, nhưng lại đầy chất thơ. Nó tưng tửng, mà lại đầy tình người. Nó là một phần Hà Nội đã gắn với tôi.

Đối với tôi, Hà Nội cho tôi nhiều thứ, cũng như quê tôi Bắc Giang đã sinh ra và nuôi lớn tôi vậy, nói văn hoa thì Hà Nội là nơi tôi dành cả tuổi trẻ của mình để phiêu lưu, phiêu lưu cùng cảm xúc của tình yêu: Tình yêu đôi lứa, tình yêu tuổi trẻ, tình yêu đất nước. Sẽ thật khó hình dung ra tôi nếu không có Hà Nội. Hay nói cách khác, Hà Nội cho tôi can đảm để đi tìm cái dị biệt của chính mình.